Thìa Là, một gia vị độc đáo trong gia đình Umbelliferae với chùm hoa mọc thành tán như các cây Tiểu Hồi, Ngò Tây, Cà Rốt.
TÊN KHOA HỌC:
Anethum graveolens thuộc họ Umbelliferae. Tên Mỹ: Dill, Pháp gọi là Aneth. Tây Ban Nha là Eneldo. Đông Y gọi Thìa Là với phiên âm Shihlo.
LỊCH SỬ VÀ ĐẶC TÍNH THỰC VẬT:
Thìa Là là một loại cỏ hằng niên mọc tự nhiên quanh vùng Địa Trung Hải và phía Nam Liên Sô, nhất là tại Ý, Tây Ban Nha. Thìa Là được trồng ở những vùng Bán Nhiệt Đới khí hậu ấm áp tại Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam và ngay cả những vùng khí hậu lạnh và mát như Thụy Điển, Nam Na Uy. Tại Hoa Kỳ vùng trồng Thìa Là nhiều nhất là vùng Tây Bắc Thái Bình Dương (California).
Thìa Là được người xưa xem là có tính làm dịu đau, dễ gây ngủ, do đó tên của cây phát xuất từ chữ cổ Na Uy là Dilla nghĩa là ru ngủ do khả năng làm cho trẻ sơ sinh dễ ngủ.
Thìa Là được trồng tại vùng Palestine do người Hy Lạp và La Mã. Những người giác đấu tại La Mã thường được cho uống một loại trà Thìa Là làm cho hăng hái trước khi ra đấu trường. Đa số Thìa Là trồng tại Mỹ là để trích lấy Tinh Dầu. Hạt ít được xử dụng, riêng phần lá hiện đang được ưa chuộng tại Mỹ trong kỹ nghệ thực phẩm. Để có thể có được Thìa Là với phẩm chất cao cần phải thu hoạch trước khi cây trổ bông.
Cây Thìa Là cần đất có pha cát thông thoát nước và có ánh nắng. Cây trồng bằng cách gieo hạt và hạt sẽ nẩy mầm sau 14 đến 16 ngày. Cây có thể mọc cao khoảng 90cm – 1.2m. hạt gieo vào đầu mùa Xuân sẽ có thể thu hoạch vào giữa tháng Tám. Nếu muốn thu hoạch hạt cho tốt thì phải cắt cây lúc trái đổi sang màu vàng nâu. để tránh việc thất thoát, Thìa Là được cắt vào khoảng sáng sớm hoặc vào lúc sẩm tối khi cây còn ẩm sương mai. Hạt Thìa Là được phơi khô dưới nắng hoặc xấy nhẹ. Mỗi Acre có thể cung cấp từ 500 đến 700 pounds hạt.
THÀNH PHẦN HÓA HỌC:
Hạt Thìa Là chứa khoảng 2 – 4% Tinh Dầu. Trong Tinh Dầu có Carvone, d limonene, phellendrene và một số terpene khác. Ngoài ra trong hạt còn có Petroselenic acid (Octa decenoic acid), một ít triglyceride và beta-sistosterol. 100g hạt Thìa Là chứa:
– Sodium | 110mg | Potasium | 4.85g |
– Calcium | 1.17g | Magnesium | 335mg |
– Sắt | 75mg | Phosphorus | 380mg |
THÌA LÀ VÀ ĐÔNG Y:
Đông Y xử dụng Thìa Là từ lâu đời. Hột Thìa Là có vị cay tính ấm, đi vào các kinh Tỳ và Vị do đó giúp tiêu thực, trị đau bụng, giải độc thức ăn. Ngoài ra Thìa Là cũng đi vào kinh Thận, Bàng Quang nên giúp lưu hành thoát khí bị ứ đọng ở Gan, trị đau bụng dưới.
Một phương thuốc Nam giản dị trị đau bụng rất nhanh là Hột Thìa Là 5g, hột Tiêu 5g tán nhỏ trộn chung uống với một chút rượu nóng.
ĐẶC TÍNH DƯỢC HỌC:
Khả năng trợ giúp tiêu hóa:
Thìa Là có tác dụng của Carvone có thể giúp tiêu hóa thực phẩm. Sau một bữa ăn nặng, nên dùng một ly Trà Thìa Là để giúp tiêu thực. Có thể tự pha Trà Dược Thìa Là theo phương thức rất giản dị: Đập dẹp 2 muổng và phê hột Thìa Là cho vào trong ly chứa 250ml nước sôi,, ngâm trong 10 phút trước khi dùng.
Khả năng trị đau bụng nơi trẻ sơ sinh:
Với tác dụng làm giảm đau, nên cho trẻ sơ sinh khóc nhiều vì đau bụng dùng một lượng nhỏ Trà Dược Thìa Là (khoảng 2 muổng cà phê mỗi hai giờ), không quá 4 lần trong ngày.
Khả năng cầm tiêu chảy:
Thí nghiệm Vi trùng học cho thấy Thìa Là ngăn chặn sự được phát triển của các vi trùng như Staphyloccoccus và nhất là Pseudomonas cùng Escherichia Coli, hai thủ phạm chính gây ra những bệnh tiêu chảy vì trúng thực nơi trẻ em.
Khả năng trị đầy hơi và hơi thở hôi:
Thìa Là được dùng từ thủa xa xưa để trị đầy hơi. Tác dụng của Thìa Là do ở đặc tính làm vỡ được các phân tử hơi trong bao tử. Muốn trị hơi thở hôi có thể nhai vài hột Thìa Là trước khi nói chuyện.
Khả năng sinh sữa nơi bà mẹ cho con bú:
Thìa Là giúp thông thoát đường chảy của sữa nơi phụ nữ nuôi con bằng sữa mẹ. Nên uống một ly Trà Dược Thìa Là một giờ trước khi cho con bú.
Khả năng trị bệnh phụ nữ:
Các bệnh nơi đường tiểu của phụ nữ thường do vi trùng E. Coli gây ra. Do đó nên thêm vào nước tắm một ít tinh dầu Thìa Là để giúp trị bệnh.
TVH