Gió O: Tại sao là tác phẩm thứ nhất là một tập thơ về con yêu, Mùa Yêu Con?
Trangđài Glassey-Trầnguyễn (TGT): Thưa Gió O, “MÙA YÊU CON Thứ Nhất” (2012) là tập thơ thứ năm của tôi.
Tại sao lần này lại về chuyện con yêu? Thưa, lý do đơn giản là vì tôi vừa bước vào kinh nghiệm làm mẹ trong vài năm gần đây. Từ lúc hoài thai, thì đã có những cảm tác khởi đi những mạch nước mới về mặt tâm lý, tình cảm, thể lý đang chảy trong tôi. Tuy sinh con là chuyện ngàn đời của nhân loại, nhưng tôi vẫn coi đó là một đặc ân. Có nhiều phụ nữ không có cơ hội sinh con, vì hoàn cảnh hay vì yếu tố sức khỏe. Có nhiều phụ nữ hiếm muộn ước ao được khổ vì cấn thai, mà không được.
Có lẽ chủ đề của các tập thơ trước cũng lý giải phần nào chủ đề của tập thơ này. Tôi viết về những trăn trở lớn trong đời mình. Tập thơ này, tuy nói về kinh nghiệm làm Mẹ lần đầu của tôi, nhưng cũng đụng chạm đến những chủ đề trong bốn tập thơ trước. Tập thơ đầu nói về tình mẫu tử, về Mẹ tôi và những hình ảnh người Mẹ Việt Nam khác mà tôi đã gặp trong cuộc sống, thì có quan hệ Mẹ–Con với tập thơ này. Từ “nếu Mẹ thích” cho đến “MÙA YÊU CON Thứ Nhất” là một giai đoạn chuyển mình của tôi cả trong đời sống (từ một người con gái, trở thành một người mẹ), lẫn trong sáng tác.
Tập thơ thứ hai là thơ cảm nghiệm, nói về kinh nghiệm tâm linh. Trong tập thơ “MÙA YÊU CON Thứ Nhất,” tôi cũng có nói nhiều đến chiều kích tâm linh của kinh nghiệm làm mẹ. Tập thơ thứ ba nói về đời sống tại Việt Nam, nhất là về những bất công đối với người nghèo. Trong bài “Con là Quê Hương của Mẹ” mà nhạc sĩ Trần Quang Lộc đã phổ nhạc, tôi có nói đến đời sống ở miền Tây Nam Bộ, và cái nghèo của người dân miền này. Về tập thơ thuyền nhân, thì đó là phần di sản của Ba để lại, nên chắc chắn phải có mảng lịch sử này hiện diện trong dòng huyết mạch cộng thông mà tôi cho rằng vẫn tuôn chảy từ đời này sang đời khác.
Gió O: Mẹ hoặc là Con là ám ảnh chính trong tập thơ đầu tay này?
TGT: Ám ảnh chính vốn là Con, nhưng hình ảnh của Mẹ (cả Mẹ đẻ, lẫn Mẹ Việt Nam) cũng hiện diện qua huyết mạch cộng thông. Tôi là chiếc cầu – vừa là Mẹ, vừa là Con – trong tập thơ này. Nhưng ở nhiều cách, Mẹ và Con không tách rời nhau trong “MÙA YÊU CON Thứ Nhất.” Vì độc giả được gặp Con qua tâm tình của Mẹ nói với Con qua từng lời, từng chữ. Và chắc chắn độc giả cũng gặp Mẹ qua mỗi câu thơ vì bà mẹ trẻ này ám ảnh cả tập thơ với sự mê con quá độ của mình. Mẹ đeo sát Con, nên nói đến Con, thì thế nào cũng có dính líu đến Mẹ.
Tập thơ phản ánh tất cả sắc màu của một tâm hồn phụ nữ lần đầu làm mẹ, từ tân toan đến hân hoan, từ hóm hỉnh đến dịu dàng. Tuy tập thơ chuyển tải những buồn vui, lo lắng, vất vả, khó nhọc của trách nhiệm làm mẹ, nhưng tình cảm chủ đạo vẫn là niềm hân hoan bất tận. Có lẽ cái dở nhất của tôi là hay lo (tuy cổ nhân có nói, ‘Người khéo thường bận, người khôn hay lo,’ nhưng tôi lo nhiều thì chỉ thấy mình khờ thêm vì mệt). Lo thật nhiều. Lo liên tục. Lo không chịu nghỉ. Cho nên thời gian đầu mới có con, tôi bị căng thẳng và đuối sức, vì muốn làm thật nhiều cho con, cái gì cũng lo hết. Một phần vì chưa có kinh nghiệm, nhưng một phần lớn hơn là vì yêu con. Nhưng sau một thời gian thì bớt lo hơn, cảm thấy mình bắt đầu quen việc, biết này biết nọ, biết chỗ mua quần áo trẻ em, biết súc bình làm sao, biết con ăn ngủ thế nào. Lúc đó, thì bắt đầu nghịch, và trong thơ cũng phản ánh cái nghịch ngợm của một bà mẹ trẻ, vừa trêu chọc con, vừa tự trào mình.
Có lẽ tính hài hước là nét đặc biệt rất riêng của tập thơ này. Trước nay, tôi đã quen với hình ảnh một người mẹ Việt Nam hiền lành, dịu dàng, mẫu mực. Đó là hình ảnh truyền thống. Thật ra, chắc chắn cũng có nhiều bà mẹ có tính hài hước, nhưng có lẽ hình ảnh đó chỉ được giữ riêng trong mỗi gia đình. Còn tôi thì là một bà mẹ Việt Nam, nhưng ở hải ngoại, lại hay nghịch, nên trong thơ cũng có những nụ cười sôi nổi của riêng tôi. Có lẽ sự trong sáng và huyền dịu của bé con đã cho tôi cái hồn nhiên này, sống lại cái không gian vô tư và không ưu phiền, dễ dàng buông xả và không chấp, nhận chân đâu là điều quan trọng nhất trong cuộc sống. Để sống với cái “Không.” Cả Mẹ và Con cùng ám ảnh cái “Không” này, và cùng nên một trong nó. Trong suốt gần bốn mươi tuổi đời, tôi chưa bao giờ có một mối dây nào mật thiết hơn là mối dây với Con.
Gió O: Từ đâu mà thi sĩ viết? Độc giả của Trangđài Glassey-Trầnguyễn là ai? Thi sĩ có mường tượng ra trong đầu độc giả nào chia sẻ những bài thơ của mình?
TGT: Tôi đã chọn làm thơ như một cách sống, nên có lẽ cái việc viết đã trở thành bản năng và bản tính. Tôi viết cho tất cả những ai quan tâm, nhưng có lẽ trước hết, vẫn là viết cho mình (và cho Con, hay một đối tượng vốn là chủ đề của một tác phẩm, ví dụ như Mẹ, như Đấng Thiêng Liêng, như Quê Hương, như Ba trong các tập thơ đã dẫn). Vì thích đọc nhiều thể loại và nhiều đề tài, nên tôi cũng đi tìm sự đa dạng và tự do trong tư tưởng và sáng tạo. Như vậy, tôi không ‘giới hạn’ độc giả của mình, qua sự mở rộng cả về đề tài lẫn phong cách sáng tác. Hơn nữa, viết là một hành động tự đưa mình vào thế yếu, khi người viết phơi bày tất cả những gì kín đáo và riêng tư nhất trong óc trong tim của họ. Tôi viết cho tất cả những ai muốn đồng hành với tôi trong kinh nghiệm làm người.
Riêng về tập thơ “MÙA YÊU CON Thứ Nhất,” tôi thiết nghĩ nó có thể thích hợp với độc giả thuộc mọi thành phần và mọi lứa tuổi, không phân biệt giới tính. Một đứa bé có thể sờ được tâm tình của mẹ mình trong đó. Một người mẹ có thể soi lại bóng mình qua những kinh nghiệm rất thực tế như săn sóc cho con, nô đùa cùng con. Một phụ nữ độc thân hay có gia đình mà không có con cũng tìm được những hình ảnh rất quen thuộc, vì ai cũng có một gia đình, một mái ấm, một nơi chốn yêu thương. Phái nam thì tìm thấy một mảng màu trong tâm hồn của người khác phái, hiểu thêm một chút về cái rồ dại vô tận của những bà mẹ khi thấy họ làm tất cả vì con, ngay cả trong lúc họ sống dở chết dở sau khi sanh mổ chẳng hạn.
Nhưng trên hết, bất cứ độc giả nào cũng có thể tìm được những giây phút thật và gần gũi, nhìn về tuổi thơ, về chính mình, về quê hương. Một đứa bé không chỉ đơn thuần là một nhân sinh non nớt, một thành viên mới của cộng đồng nhân loại. Đối với tôi, Con là cả quê hương, là cả mạch nguồn sáng tạo, là những gì đẹp nhất và thật nhất trên cõi đời này. Và vì sự bất lực của mình khi dùng ngôn ngữ để diễn tả những điều này, tôi mới mượn nhiều hình ảnh khác nhau để nói về Con – từ bùn non cho đến ánh quang Thượng Đế, từ mùi mía thơm cho đến một quê hương trong tâm thức. Nhưng sự vay mượn này cũng có tính phản đề của nó: ai đã từng lội bùn non mới biết nó ‘mẫn mịn, tan giòn’ như thế nào; ai đã từng ngồi xước mía thanh dịu trong một chiều Tết ở miền Tây Nam Bộ, giữa biển nắng dạt dào và đồng nương bát ngát, mới hiểu cái vị thanh và ngọt và thơm của mía ra làm sao; ai đã từng yêu thương tha nhân, như Jean Valjean của Victor Hugo, thì mới biết, dung nhan của Đấng Thiêng Liêng đẹp đến nhường nào. (Ở đây, tôi nói đến Đấng Thiêng Liêng như một hình ảnh bao dung, đầy yêu thương, dung nạp tất cả. Một cảm nhận riêng của tôi, để hướng về những gì hoàn mỹ nhất và nhân bản nhất.) Và ngay cả khi hai người cùng lội bùn non, thì cảm nhận của mỗi người cũng sẽ khác biệt, cho nên, thơ ca cũng chỉ là lối thông để người đọc và người viết đi vào tâm thức của mình và của nhau.
TĐ