Menu Close

Di chúc bị thất lạc

Nói chuyện với người nhà về di chúc và việc phân chia tài sản là một cái gì đó mà đa số người Việt Nam chúng ta còn khá e ngại.  Có khi các cô, chú, bác sẵn sàng đến gặp tôi để làm di chúc vì muốn giúp con cháu trong nhà tính chuyện hậu sự trước khi bệnh hoạn hay có chuyện bất trắc xảy ra. Nhưng họ lại lưỡng lự chia sẻ với con cái.  Trong vụ kiện Mingo v. Mingo, tòa án nêu ra luật pháp liên quan đến việc di chúc bị thất lạc và cho chúng ta thấy rằng làm di chúc là một bước đầu trong việc giúp người thân tính chuyện hậu sự nhưng nó sẽ trở thành vô nghĩa khi không ai có thể tìm ra bản gốc của tờ di chúc (original will).

Trong vụ kiện Mingo v. Mingo, sau khi bà Maude qua đời, em gái bà là Mary khởi đơn yêu cầu tòa án nhận thực di chúc của bà Maude. Nhưng hai người em trai của bà Maude, ông William và ông U.S. lại chống lại yêu cầu đó. Sau phiên tòa xử, bồi thẩm đoàn xác nhận rằng bà Maude đã không hủy bỏ di chúc đó khi bà còn sống. Tuy nhiên tòa án đã cho hai người em trai của bà Maude thắng kiện khi họ yêu cầu tòa án quyết định mà không dựa vào sự phán xét của bồi thẩm đoàn, và lý do đó tòa từ chối nhận thực tờ di chúc mà bà Mary đưa ra.

Tờ giấy bà Mary cung cấp cho tòa là một bản sao lại nội dung tờ di chúc của bà Maude được hoàn tất vào ngày 24 tháng 9, năm 1953.  Nhưng bản sao này không có chữ ký của bà Maude hay là của 2 nhân chứng mà những chỗ đáng lẽ họ phải ký tên thì được đánh máy tên họ vào.  Theo tài liệu và bằng chứng thì di chúc của bà Maude trước đây từng được hoàn tất ở văn phòng luật sư theo đúng thủ tục pháp lý.  Nhưng sau khi bà Maude qua đời không ai có thể tìm ra bản gốc di chúc mặc dù có người làm chứng rằng bà Maude đã từng giữ tờ di chúc gốc mà bà hoàn tất vào ngày 24 tháng 9, năm 1953. Vấn đề chính mà tòa phải quyết định không phải là tờ di chúc có hoàn tất hợp pháp hay không mà là tờ di chúc đó có bị hủy bỏ bởi bà Maude hay không.

Luật di chúc nói chung có nêu ra rằng nếu tờ di chúc từng trong tay hay trong sự sở hữu của người viết di chúc nhưng sau khi người đó qua đời mà không ai có thể trình ra tờ di chúc đó thì tòa sẽ tự động cho là người viết di chúc đã có chủ đích hủy bỏ tờ di chúc của họ, và người nào muốn tòa phán xử ngược lại có bổn phận phải chứng minh rõ ràng trước tòa.

Trước đó tòa kháng cáo dân sự ở Amarillo có đưa ra quyết định tương tự trong vụ kiện Bailey v. Bailey. Tòa này cũng khẳng định, khi không ai có thể tìm ra bản gốc của tờ di chúc, tòa cần có những dữ kiện và bằng chứng rõ ràng cho tòa thấy rằng người viết di chúc đã không hủy bỏ tờ di chúc họ từng làm khi còn sống hoặc tờ di chúc bị hủy hoại một cách bất hợp pháp bởi một người nào khác.

Trong vụ kiện Mingo v. Mingo, một số nhân chứng đã xác nhận trước tòa về sự hiện hữu của tờ di chúc. Tuy nhiên đa số lời khai của họ lại là những dữ kiện liên quan đến khoảng thời gian trước khi bà Maude làm di chúc. Cũng có những nhân chứng xác nhận rằng bà Maude từng tuyên bố nhiều lần rằng bà muốn để lại tất cả tài sản cho người em gái tên Mary, và bà Maude cũng nói rằng bà đã hoàn tất tờ di chúc đó. Điều nan giải mà tòa phải quyết định không phải là tờ di chúc đó có hay không, hoặc là ai là người thừa hưởng. Cái mà tòa cho là quan trọng nhất là bà Maude từng giữ tờ di chúc đó, và sau khi bà chết không ai có thể tìm ra hoặc trình ra bản gốc trước tòa án. Và trong trường hợp này bà Mary là người có trách nhiệm chứng minh ngược lại vì bà là người muốn tòa nhận thực di chúc của bà Maude dù không có bản gốc.

Giống như đa số các vụ kiện tương tự, cái mà nguyên đơn thường gặp trở ngại là bằng chứng đủ mạnh để thuyết phục tòa về việc người viết di chúc đã không hủy bỏ di chúc.  Người luật sư của bà Maude có khai rằng ông là người đã giúp bà Maude hoàn tất di chúc của bà mà bản sao trình trước tòa không có chữ ký của bà Maude hay của 2 nhân chứng đúng là nội dung của tờ di chúc chính. Nhưng ông luật sư lại không thể khẳng định rằng bà Maude có hủy bỏ tờ di chúc đó hay không.

Một nhân chứng khác tên Mae khai trước tòa rằng bà Maude từng gọi Mae là con gái nuôi vì họ từng rất gần gũi, thân mật trò chuyện với nhau, và bà Maude đã tâm sự với bà Mae rằng bà sẽ để lại tất cả tài sản cho bà Mary, nhưng bà Mae không có mặt khi bà Maude làm di chúc dù bà Mae tin rằng bà Maude đã hoàn tất một tờ di chúc. Bà Mae cho rằng, dù bà Maude có một hộp kim loại ở nhà bà thường để giấy tờ, nhưng theo bà Mae, bà Maude thường nói rằng tất cả tài liệu, giấy tờ quan trọng đều được giữ trong hộp ở nhà băng. Đồng thời bà Maude cũng từng nói rằng bà muốn làm di chúc sớm vì chồng bà trước khi chết đã không làm di chúc làm cho bà gặp phải rất nhiều trở ngại trong việc thừa hưởng tài sản ông để lại. Bà Mae cũng khai rằng người em trai tên Will cũng thường xuyên đến thăm bà Maude khi bà Maude còn sống.

Tòa phân tích rằng hầu như tất cả các lời khai của nhân chứng đều không chứng minh rõ ràng cho tòa thấy là di chúc đã bị hủy bỏ hay không.  Cái mà họ chứng minh là bà Maude từng muốn làm di chúc và để tài sản lại cho bà Mary. Tờ di chúc đó đã được hoàn tất vào năm 1953, khoảng 19 năm trước khi bà Maude chết. Những lời khai của nhân chứng chỉ tập trung vào khoảng thời gian từ 1964 đến 1965 khi họ thấy bà Maude từng sở hữu trong tay bà tờ di chúc đó. Từ năm 1965 đến khi bà Maude chết, khoảng 7 năm, lại không hề có một bằng chứng hay nhân chứng nào có thể đưa ra một dữ kiện cụ thể về sự hiện hữu của tờ di chúc. Cũng không hề có một bằng chứng nào để tòa có thể kết luận là tờ di chúc đã bị hủy một cách bất hợp pháp bởi một người khác. Do đó tòa kết luận rằng dựa vào luật pháp, bằng chứng và nhân chứng thì người khởi kiện đã không đủ thuyết phục tòa loại bỏ cái mà tòa đương nhiên chấp nhận là di chúc được cho là đã bị hủy bỏ.

Nói tóm lại hoàn tất di chúc khi còn khỏe mạnh là một khởi đầu tích cực, nhưng nên chú ý đến việc gia đình người thân có thể dễ dàng tìm ra tờ di chúc khi cần thiết để tránh việc tranh chấp về sau dù đã nỗ lực làm di chúc.

LS AT