Menu Close

Bến đỗ kế tiếp

Tôi là người dễ bị cuốn hút vào những câu chuyện kết thúc không có hậu hơn là những bộ phim hài hước. Ở mỗi bộ phim tôi dường như đều đặt bản thân mình vào nhân vật để hiểu rõ cốt truyện hơn và để hoà tan được cảm xúc của mình vào mỗi câu truyện, nên thường sau khi xem xong, tôi phải mất đến một hoăc hai tuần để trở lại đúng với tâm trạng của mình – tùy theo tình tiết của bộ phim. Tôi không thuộc tuýp người xem phim tình cảm, hay lãng mạn vì tôi nghĩ tình yêu của nam nữ nhân vật chính chỉ có ở trong phim. Tuy nhiên, gần đây, thầy tôi giới thiệu cho chúng tôi một bộ phim mang tên “The Notebook”.

tet thahuong 01
Tác giả

Phim kể về mối tình đầu của hai nhân vật chính. Họ gặp và yêu nhau khi cả hai chỉ mới mười bảy tuổi. Giống như bao bộ phim khác, cô ấy sinh ra từ một gia đình học thức và danh giá. Trái ngược với cô ấy, anh ấy chỉ có thể kiếm được 40 cent trong một giờ đồng hồ. Sự ngăn cấm từ phía gia đình cô ấy đã khiến hai người lạc mất nhau suốt bảy năm. Trong khi anh ấy vẫn tiếp tục xây ngôi nhà với màu sắc và cách bài trí theo mơ ước của cô, thì cô lại hẹn hò và đính hôn với một gã mà người ta thường gọi là “môn đăng hộ đối”. Nhưng mọi thứ lại trở về như cách nó đã bắt đầu. Cô và anh lại đến bên nhau sau chuỗi thử thách ngỡ như là vô tận.

Với tôi, bộ phim cũng không có gì gọi là đặc biệt so với những bộ phim tôi coi trước đây là mấy, cho tới cảnh anh ấy (bây giờ đã thành lão niên) bật khóc khi thấy cô đau đớn bởi căn bệnh mất trí nhớ của người già, và cảnh hai người nắm chặt tay nhau nằm chết trên giường tại viện dưỡng lão. Ðây có thể nói là bộ phim thứ hai sau Titanic mà tôi khóc như một đứa trẻ. Tôi khóc không phải vì tình yêu vĩnh cữu của anh và cô, mà vì tôi thấy chính mình đâu đó trong những phút cuối của bộ phim. Họ dành cả tuổi trẻ để yêu một cách cuồng dại, để học hỏi, để thực hiện đam mê, và để nuôi dạy những đứa con của mình đến khi chúng lập gia đình. Nhưng sau tất cả, họ với thân già hiu quạnh trong viện dưỡng lão – nơi chôn vùi hết thảy những kỷ niệm đẹp của tuổi thanh xuân. Tôi như cảm nhận được sự lạc lõng, sự cô đơn mà có thể thấu hiểu được trái tim và đọc được suy nghĩ trong đầu mình. Rồi nhiều câu hỏi hiện lên trong đầu tôi rằng, “Tôi đang học, đang kiếm tiền để làm gì?” “Có phải tất cả những gì tôi làm rồi đều sẽ kết thúc trong viện dưỡng lão đó không?” “Khi tôi ở đó, ai sẽ là người đến thăm và kể chuyện cho tôi nghe vào mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối?” Tôi không biết!

Nhiều người nói, “Ðược qua Mỹ là sướng” hay “Tuổi còn trẻ sức còn nhiều nên làm được lắm thứ” Vâng! Qua Mỹ sướng lắm, tuổi trẻ còn may mắn hơn nữa ấy chứ! Nhưng sẽ không còn sướng khi sử dụng hằng ngày thứ ngôn ngữ mà bạn chưa bao giờ dùng nhiều như vậy ở Việt Nam. Cũng không còn may mắn khi tuổi trẻ của bạn bị đánh đổi và vùi lấp bằng công việc mà bạn không có đam mê, thậm chí chẳng liên quan gì đến ngành nghề sau này của bạn. Sinh viên chúng tôi không thức khuya vì sách vở, thì cũng mất ngủ bởi những thị phi bủa vây trong đầu mình sau mỗi ngày làm việc. Bạn bè tôi thử đủ mọi loại công việc từ bảo hiểm, cashier, waitress, cho tới nail. Ðã lao động là vất vả, giống như đã ăn là mập vậy. Chứ chẳng có loại thức ăn nào giúp bạn giảm cân. Hay cũng không có nghề nào nhàn hạ mà lương cao cả. Mỗi lúc ghi danh học, chúng tôi phải chọn giờ để không đụng lịch làm việc. Học xong lại chạy thục mạng đến chỗ làm. Hầu như thời gian chúng tôi dành cho việc học và công việc là chính. Ðược ngày nghỉ thì loay hoay ba chuyện lặt vặt trong nhà cũng hết một ngày. Nhiều khi muốn tham gia các hoạt động trong trường hay xã hội cũng không thể. Chúng tôi từng nghĩ dường như chúng tôi đang đánh mất tuổi thanh xuân của mình vào những việc làm vô bổ ở xứ tha hương này. Nhiều người tôi biết đã không còn đủ kiên nhẫn khi vừa đi học đi làm kiểu vậy. Thế là họ chia tay cuộc sống độc thân, và mở ra trang mới của cuộc đời họ bằng một cái hôn nhân. Tuy nhiên, số bạn còn lại của tôi khá là chịu thương chịu khó, họ luôn cười dẫu không vui, họ luôn suy nghĩ lạc quan dẫu đang gặp khó khăn. Bên cạnh họ, tôi như được nhận ra những việc tôi đang làm là không phí phạm. Họ cho tôi nghị lực để cười vào mỗi buổi sáng sớm, và mãn nguyện khi những ánh đèn đường bắt đầu hiện lên sau sáu giờ tối. Tôi từng nghĩ kinh nghiệm là trong sách, đọc được chúng, tôi sẽ có được kinh nghiệm mà tôi cần cho đến khi tôi đọc một bài báo. Tác giả nói rằng, “Kinh nghiệm không học từ người này truyền từ người kia được, mà kinh nghiệm là dựa trên thực tế của chính bản thân, đặc biệt là thời điểm còn ngồi trên ghế nhà trường.”

Khi chúng tôi vừa đi học vừa đi làm, cứ ngỡ là đang đi chệch hướng vì thời gian được nghỉ ngơi không nhiều, nhưng nhờ đi làm cả bọn du học sinh chúng tôi mới biết thế nào là khả năng đa nhiệm, sắp xếp thời gian, cân bằng đầu óc. Quả thật đúng vậy, chúng tôi lanh lợi ra, biết khi nào nên nói và không nên nói, hay cân bằng giờ giấc của bản thân tốt hơn – điều mà chúng tôi chưa từng làm khi ở Việt Nam, đặc biệt lúc còn học cấp hai hay cấp ba. Bây giờ, mặc dù đôi khi khá thấm mệt và muốn giũ bỏ tất cả, nhưng chúng tôi cảm thấy biết trân trọng thời gian hơn, sống tích cực hơn để mai này khi già đi vẫn còn có cái để nhớ về những cố gắng của chính bản thân mình lúc trẻ. Còn không thì “nhờ ai đó đọc lại cho tôi nghe những bài tôi đã từng viết”.

Nói vậy thôi chứ tất cả cũng chỉ vì một tương lai mà mọi người gọi nó là “thành công”!

Viện dưỡng lão – không ai muốn mình bị đưa vào đấy cả. Với tôi, đưa cha mẹ vào đấy là một điều bất hiếu chứ không phải là một xu hướng tất yếu như nhiều bài báo vẫn nói. Lý do phổ biến nhất là vì “Con bận quá!” Tôi không nghĩ họ bận đến mức quên cả nhậu, hay bận đến mức không kịp đi shopping vào những ngày lãnh lương cuối tháng. Câu “Lương y như từ mẫu” có lẽ không mang tính thuyết phục với tôi. Tôi tin tình người vẫn còn hiện hữu, nhưng không đủ nhiều cho cả bảy tỉ người ở thế giới này. Theo một bài báo tôi từng đọc thì không quá khó để tìm được những viện dưỡng lão thiếu chuyên môn, không nhiệt huyết, không tận tình, và không được đào tạo kỹ lưỡng. Ðặc biệt, con số của những người bị ngược đãi còn tăng lên một cách đáng kể khi ngân quỹ tài chính từ nguồn tài trợ của chính phủ bị cắt giảm. Và đó sinh ra hậu quả họ bị bỏ mặc khi những cơn đau dày vò họ. Thường thì người lớn hay thích ra quyền, và chỉ giáo lớp trẻ. Họ – người già, khi đến giai đoạn sinh lão bệnh tử rồi, thì cũng không khác gì những “đứa trẻ” bị lãnh đạo bởi những “người lớn” – y tá, bác sĩ. Họ nhạy cảm và cần tình yêu thương nhiều hơn ai khác. Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi “những đứa trẻ” ấy phải nương tựa một cách bất đắc dĩ ở cái nơi nhà không phải nhà, mà tù cũng không ra tù như vậy. Cuộc đời còn lại của họ phụ thuộc vào những lịch trình được sắp đặt sẵn. Họ không thể ngủ khi người khác đã dậy, họ không thể ăn khi những người khác chưa được ăn, và họ không thể nắm tay rồi đi lên xe để về nhà cùng con cái của họ như bao người. Họ chỉ có thể nhìn theo những bước chân và bóng dáng thân thương ấy khuất xa dần, để lại thêm bao nhiêu buồn tủi trong tâm hồn đã từng va chạm rất nhiều khi còn trẻ. Sáu mươi năm tung hoành ngang dọc, không sợ trời sợ đất giờ lại phải tuân theo những điều luật mà sáu mươi năm trước họ chưa từng được nghe đến. Viện dưỡng lão, với tôi, chỉ là nơi để “tồn tại” – không phải nơi để “sống”

Nếu ai có hỏi trước khi chết tôi muốn làm gì, tôi sẽ nói “Tôi muốn về căn nhà gắn liền tuổi thơ của mình, và chết trên chiếc giường vẫn còn đâu đó hơi ấm và mùi hương của tôi!”

NT