Menu Close

Thơ tưởng niệm Chiều trên đồi 31

Ðường dẫn trước khi vào thơ

Memorial Day đã đi qua nhưng lòng tưởng niệm các chiến sĩ trận vong vẫn còn ở mãi với mọi người. Cho nên khi nhìn lại chiến tranh Việt Nam không ai quên những người đã hy sinh thân mình vì đất nước. Trong số đó trước hết phải kể đến “Người anh hùng mũ đỏ tên Ðương” – Ðại úy Nguyễn Văn Ðương.

Ðại úy Ðương là Pháo Ðội Trưởng Pháo Ðội B của Tiểu Ðoàn 3 Pháo Binh Nhảy Dù. Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, tháng 2 năm 1971, tiểu đoàn 3 Dù trấn đóng đồi 31 vùng Hạ Lào. Theo ghi nhận của nhà văn Phan Nhật Nam, vị trí Ðồi 31 của Tiểu Ðoàn 3 Dù được Pháo Ðội B3 Pháo Binh Dù do Ðại Úy Nguyễn Văn Ðương chỉ huy yểm trợ. Vòng đai cực Bắc của Biệt Ðộng Quân bị tấn công trước; tiếp vị trí Ðồi 30 của Tiểu Ðoàn 2 Dù bị công phá. Cuối cùng, chỉ còn lại Căn Cứ Ðồi 31 giữa vòng vây của một sư đoàn Bắc Việt (tỷ lệ 1 chống 15). Ngày 25/2, Ðồi 31 bị tràn ngập, Ðại úy Ðương bị thương đã tự bắn vào đầu hy sinh trước khi căn cứ lọt vào tay Cộng sản Bắc Việt.

Ðại úy Ðương mất đi để lại người vợ tên là Trần Thị Mai và bốn con -Nguyễn Viết Xa con trai út lúc đó mới hai tuổi. Bao năm qua, bà Trần Thị Mai mong ước được tới đồi 31 ở Hạ Lào để viếng linh hồn và cầu nguyện cho chồng nhưng đời sống quá eo hẹp không cho phép bà thực hiện được ý nguyện. Vừa qua, may nhờ nhật báo Người Việt biết được hoàn cảnh mẹ con bà nên đã vận động hải ngoại giúp đỡ. Và ngày 16 tháng 4 năm 2016, bà Trần Thị Mai cùng con trai Nguyễn Viết Xa đã tới đồi 31 ở Hạ Lào thăm viếng. Trải qua bao khó khăn vất vả họ đến được vùng đất xưa. Phóng viên Việt Hùng báo Người Việt thuật lại: “

“Ðúng 11 giờ trưa, chúng tôi đến khu vực đồi 31. Ngọn đồi hoang vu giá lạnh. Ðất đai khô cằn, nền đất đỏ với nhiều hạt đá nhỏ trộn lẫn vào nhau. Chỉ có giống cỏ voi là còn mọc được nơi đây, ngoài ra không thấy cây cối nào khác.

“Cầm tấm hình cố Ðại úy Ðương trên tay, bà Trần Thị Mai bước xuống xe như ứa nước mắt, nhìn xa xăm và nói: “Cô cảm thấy lạnh quá cháu à. Cô cảm nhận được anh Ðương đang ở rất gần đây.” Rồi bà ôm bó nhang, cùng bịch trái cây đã chuẩn bị sẵn mang theo bên mình, đi đến khu vực có miếu thờ.

Tại đây, bà thắp nhang, bày vật dụng đã mang sẵn theo ra để làm nghi thức cúng viếng. Trong tiếng gió rít trên đồi, tiếng bà thì thầm với người chồng nằm lại mảnh đất này: “Anh Ðương ơi, hôm nay em dẫn con trai của anh đến đây thắp nhang và rước vong hồn của anh về lại Việt Nam. Ðây là lần đầu tiên em đến được nơi này.”

“Nếu anh có linh thiêng thì hãy theo mẹ con em về Việt Nam, chứ ở đây lạnh lẽo lắm anh à. Em sẽ thỉnh một nắm đất nơi đây, đem về Việt Nam để nơi Chùa, mong hương hồn anh hãy theo em về, để mẹ con em còn được thắp hương cúng thờ cho anh.” Bà Mai vừa nói, vừa bốc nắm đất bỏ vào cái khăn vải đỏ gói lại để mang về.

“Còn anh Nguyễn Viết Xa nói với cha: “Ba ơi, 45 năm rồi từ ngày ba ra đi đến hôm nay con và mẹ mới được đến nơi đây. Ngọn đồi 31 này con cũng nghe nhiều, nhưng hôm nay mới được chứng kiến. Con và mẹ đã rất muốn đến đây sớm hơn, nhưng điều kiện không cho phép. May mà có quí vị ân nhân ở hải ngoại giúp đỡ, nay mẹ và con mới đến được nơi này.”

“Bà Mai cầm xấp giấy tiền hàng mã, rải đều trên đất. Mảnh đồi hoang vu, cùng với cơn gió Lào thổi mạnh, khiến cho từng tờ giấy bay xa. Khuôn mặt bà nhìn xa xăm theo làn gió theo những tờ vàng mã bay xa. Một mắt bà đã mù hẳn, con mắt còn lại cũng yếu mờ, nhưng bà vẫn cố nhìn ra xa, xa mãi nơi ngọn đồi 31 huyền thoại, nơi rất nhiều người lính vẫn nằm lại nơi đây không trở về.

“Bà cầm di ảnh và “nắm đất” của cố Ðại úy Ðương, tiến thẳng vào ngôi miếu thờ. Bà bày mâm cơm để cúng các vong linh đã bỏ mình nơi đây, trong đó có cả lính bộ đội Bắc Việt. Bà Mai thắp hương, vái lạy, miệng cầu: “Xin chào các người lính đã hy sinh nơi đây, hôm nay tôi đến đây để thắp nén nhang kính viếng đến các anh. Tôi là vợ của người lính VNCH, nhưng tôi cũng cầu chúc cho các vong linh của người lính Bắc Việt. Chiến tranh đã đi qua, mong các anh hãy tha thứ cho nhau.” (trích Người Việt Online)

Thật là những lời đầy nhân bản. Xin để gió mang đi. Và xin những anh em trong màu áo khác ở bên kia hãy đọc và nhìn lại đất nước, nhìn lại bản thân và con đường… Nắng chiều trên đồi 31 còn rực trên vai áo.

chiều. trên đồi*

đã đến
trên đồi ba mốt
nắng
và gió lào
gọi tên
bốn mươi lăm năm
áo xưa đã rách
trăng xưa. bạc màu
vẫn còn hai cái bóng
quỳ khóc
buổi chiều. của cỏ khô. và mây xám
những bông hoa vàng mang từ thành phố
những trái táo
chung quanh là chiến xa. và trực thăng. han rỉ
nước mắt. chiều rơi
chiến tranh đã đi qua
nhưng những vệt máu khô
còn trong nắng chiều. và trên mặt người
trong giúm đất
nhớ người anh hùng một thuở. đã nằm lại trên đồi này
cùng nhiều người khác. bạn và thù
xứ lạ
bát cơm ăn cũng khác
giải oan. xin chia hết. hồn ơi
chiều nay
những cánh bướm vàng mã
bay lên
bay lên
đưa người qua biên giới
về lại bến sông xưa
về lại bến sông xưa

TN – May 2016