Kỳ 1
Mạch cảm cho Hà nội
Tôi như một cánh chim di cư sâm cầm đậu xuống mặt nước hồ Tây. Một ngày, tạm dừng những bước chân quẩn quanh những góc phố trầm, tạm xa những cơn mưa phùn Hà Nội đổ trắng khóe mắt. Vác ba lô, tôi lên mạn ngược.

Khúc đời xiêu vẹo, trôi dạt vạn dặm. Danh xưng Nguyễn Thường Pha, gã đồng hành tự bạch cái tên có nghĩa là vô thường. Pha, là khóa fa trong âm nhạc. Gã luôn thích một cuộc đời như thế. Ðôi khi, chàng đòi nhảy nốt để phá với đời, nhưng đời vẫn để chàng phà phà ở khoá fa.
“Gọi anh là đồng hành hay đồng bào đây?”
“Là… đồng bọn!” Pha cười, lặp lại cái thói quen xòa xòa những cọng mạ lún phún, “Mình để đầu đinh vì đang sống trong thời kỳ đồ đểu!” (hàng nhá).

Ý nghĩ làm tôi cười xòa, dù đã nghe khá nhiều thành kiến chẳng mấy ưu ái về Hà Nội. Sự thận trọng, hay cái đôn hậu tao nhã chất Tràng An trở nên khó tìm như một chiếc áo cánh bằng phin nõn ngay giữa lòng Hà Nội. Cuộc sống, tư duy của những con người Hà Nội vẫn chừng như quá xa lạ với tôi. Những nơi tôi qua, những phố thị mang nhiều khuôn mặt lạ. Ðoạn đường xa thì đã có chàng Pha, dẫu gã có phà phà hay phá nốt, vẫn cảm giác không quá trơ trọi một trời hiu quạnh.
Chiếc xe Vespa vít ga kéo bọn tôi ra hướng cửa Nam thành về ga Hà Nội. Ga Hàng Cỏ nằm chỉ ngay ngoài cửa Nam thành Thăng Long xưa. Những Quán Sứ, Khu Ðấu Xảo và Hàng Cỏ…, ngay ngoài cổng Nam thành Thăng Long. Quán Sứ vốn là nơi nghỉ ngơi của các sứ thần lân bang nước Việt, khu Ðấu xảo là nơi diễn ra các sự kiện, hội chợ, triển lãm…, những ngày lễ Tết xưa, những cây nêu, những trò chơi kéo co, xích đu, mãi võ.
Hà Nội – 36 phố phường, nơi những con phố nhỏ với những Hàng như Hàng Ðào, Hàng Mắm, Hàng Tre, Hàng Mành, v.v… Ký ức, chợt vắt ngang một câu thơ cũ, “Gió đưa cành trúc la đà/Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương”. Ga Hà Nội, vốn còn được gọi là ga Hàng Cỏ thuộc huyện Thọ Xương.

“Thăng Long thành hoài cổ – lối xưa xe ngựa hồn thu thảo.” Người Hà Nội giờ đây, khó thể hình dung được cái chợ Hàng Cỏ bên bãi đua ngựa xa xưa thế nào. Những sử tích phủ dụ mùi cỏ của một khu đất hoang toàn những cỏ lau, cỏ lác, cỏ mần trầu, cỏ ngọt… “La ga” của một thời đèn choang sáng trong thơ Tản Ðà. Những rối lộn tây, tầu, ta. Những kẻ mang, người xách va li, khăn gói, bồ, thúng, đãy… Hình ảnh anh lính dõng lính lệ đầu đội nón dấu, chân quấn xà cạp nhưng đi đất, hàng ngày có nhiệm vụ ra khu vực bãi hoang mua cỏ về nuôi ngựa, nuôi voi cho nhà vua phủ chúa. Những gánh cỏ trên vai gánh vào cái chợ bán cỏ của những phụ nữ thắt lưng hoa đào, hoa lý, khăn mỏ quạ. Hàng Cỏ, là nơi mà dân kẻ chợ tấp nập từ hơn một thế kỷ trở về trước, từng là nơi cung cấp cỏ cho ngựa thuộc thôn Tiên Mỹ, huyện Thọ Xuyên. Những gánh cỏ cho những con ngựa sẽ đưa dân tứ xứ về Hà Nội, và cũng từ đất Thăng Long kinh thành xưa tỏa ra khắp chốn.
Rồi Ga Hàng Cỏ ra đời từ cái chợ cỏ muôn xưa. Những làn khói trắng của những con tàu, không còn hình ảnh của những anh lính lệ đầu đội nón dấu triều đình, mà là những chiếc mũ lưỡi trai thổi còi của nhân viên hỏa xa…
Ðêm Hà Nội trở gió, tôi quàng vai cái balô bờ bụi. Chàng Pha, góp nhóp kiến thức bằng hàng loạt cái tên lạ lẫm. Mặt sau của ga Hà Nội mà người dân thường gọi là ga Trần Quý Cáp, và gần đó là Y Miếu. Khác với Văn Miếu vốn được đề cao bởi văn hóa khoa bảng người Việt, Y Miếu thờ Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác và Tuệ Tĩnh Thiền Sư nằm khiêm nhường ở con phố chỉ 300m dài song song và sau lưng Trần Quý Cáp. Khác với mặt tiền của ga Hà Nội ở đường Lê Duẩn, vốn trưng bày bộ mặt ra ngoài với rất nhiều ánh đèn điện, mặt sau của ga Hà Nội đường Trần Quý Cáp, tịch chìm trong ánh đèn vàng vọt phủ sương đêm.

Chuyến đi Lào Cai – Sa Pa của bọn tôi. Không có chuyến bay nào từ Hà Nội lên Sa Pa trừ những chuyến charter flight đi bằng trực thăng. Tuyến đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai cũng mới mở được hơn một năm qua.
Chuyến tàu lửa đêm đi từ Hà Nội lên Lào Cai. Con đường sắt Hà Nội lên Lào Cai vốn là một phần của đường sắt xuyên Việt thông sang Côn Minh, tỉnh Vân Nam. Sau khi chiếm trọn Việt Nam năm 1885, người Pháp đã nhanh chóng ký với nhà Thanh hai Công ước là Công ước Gerard 1885 và Công ước Constans 1887 để phân định biên giới phía Bắc. Con đường sắt Hà Nội – Lào Cai hoàn thành vào năm 1910, vào thời đó đoạn đường sắt này và con cầu Doumer bắc qua sông Hồng đều là những công trình đánh dấu kỹ thuật hàng đầu thế giới lúc bấy giờ. Ðường sắt Hải Phòng – Hà Nội – Lào Cai – Côn Minh (Vân Nam), khiến trên chục nghìn người cả âu và tàu thiệt mạng, khởi công năm 1901 tới năm 1910, qua nhiều địa hình hiểm trở. Ðường ray khúc khuỷu khổ hẹp 1.1m khác với khổ quốc tế 1.435m (trên toàn Việt Nam hiện tại là khổ hẹp).
Không “Những bóng người trên sân ga” như trong những dòng thơ Nguyễn Bính, cũng không những cảm xúc xé lòng như lời nhạc của Dzoãn Mẫn trong “Biệt Ly”. Chuyến tàu đêm Hà Nội – Lào Cai, chỉ thấy rặt Tây balô chiếm lĩnh toàn bộ những băng ghế đợi. Trong sân ga, tôi tìm một chốn loay hoay đợi giờ lên tàu. Khư khư cái balô bờ bụi trong tinh thần “cảnh giác cao độ”. Vô tình, đối thoại mình với cái ngôn ngữ của tấm biển trên tường. [Chi nhánh vận tải đường sắt Hà Nội thực hiện văn hoá ứng xử khi giao tiếp với khách hàng: “ Xin chào- xin cảm ơn- xin lỗi- xin phép- luôn mỉm cười- luôn nhẹ nhàng- luôn thấu hiểu- luôn giúp đỡ.”] Ngành đường sắt của Việt nam, tôi có đọc qua, là đã tụt hậu trong dịch vụ so với đường bộ và đường hàng không trong quá trình Việt Nam mở cửa. Chẳng hiểu, đây là văn minh ứng xử hay chỉ là sự gò lời? Ðối diện tôi, một cặp mắt xanh lơ đang oe oe, đôi bàn chân nõn hồng đã sớm ví dặm phiêu lưu trên tay bế tay bồng. Chỉ có bố mẹ tây mới dày dạn, lãng du, phượt khi con còn ẵm ngửa.

Những cái tên mang những hình dung quá khứ – Ga Hàng Cỏ xưa đây, trước mặt ga là Khu Ðấu xảo nay là Cung văn hóa hữu nghị. Những con người mặc áo tứ thân, khăn mỏ quạ; những chiếc mũ phớt và gậy ba toong; những cỗ xe kéo; những quang gánh… những màu sắc thuộc địa đầu thế kỷ 20. Những xâu chuỗi của nốt ký ức thăng trầm- biến cố – ly điệu. Lịch sử mang linh hồn!
Ai đó đã ghi nhận rằng, những cái tên thường tạo trong trí tưởng của con người những hình ảnh không giống thực tế. Ví như một tách trà trong bữa ăn đã nguội, bởi những vị đắng đã dường như quá vãng. Tôi lại tìm thấy bóng mình trong những ẩn tích của cái đẹp quá khứ.
Chuyến tàu của hai lãng tử nằm ở platform số 8 chẳng có thang bộ hay hầm ngầm giữa các platforms. “Giới trẻ Hà thành thời nay hẳn chẳng thể hình dung những câu chuyện về ‘nỗi kinh hoàng đi tàu’ của các bậc cha chú thời quá khứ!” Pha kéo tay tôi qua những dãy đường tàu, toa xe, toa khách, cái xám, cái xanh chật trong lòng ga.
Ý nghĩ tôi dừng hoang du, cơn mỏi mệt tạm đậu vào cái toa cabin bốn giường nằm. Mua vé trễ nên nàng đành thượng tọa trên tầng giường 2. Cởi bỏ đôi giầy, buông cái balô bờ bụi ở xó giường, tôi thở xòa. Hành trình bay đăng đẳng từ Mỹ về lại cái dải đất hình chữ S quả là nhọc nhằn, nhấc mình cũng chẳng kéo nổi cơn mệt nhoài. Những hình dung về một hành trình xe lửa với tiếng trẻ con khóc, những ngổn ngang hành lý của những con người mưu sinh xa xứ đến Hà Nội; hay những kiện hàng của những người buôn chuyến dọc theo con đường hỏa xa sang Trung quốc… Tất cả đều thừa thãi.

Con tàu rời ga. Ðầu máy diesel ì ạch vượt núi, băng đêm để đến vùng đất biên Lào Cai. Những cái mắt toa rù rì như đàn ngựa già, sau hàng trăm chuyến leo dốc lên vùng đất của những người dân tộc thiểu số xứ Tây Bắc xứ mạn ngược. An yên, tôi thả mắt, nhặt nhạnh những hình ảnh Hà Nội qua khuôn cửa toa tàu. Khuya trổ trăm ánh đèn, những ngã phố nhộn nhịp ngựa xe, những người dân vẫn sinh hoạt sát đường ray ngay giữa lòng Hà Nội. Tiệm cắt tóc, tiệm cà phê, tiệm bánh mì… Hà Nội về đêm, vẫn sinh động những mưu sinh vật vã.
Cắt lát ngang đường Nguyễn Thái Học và Trần Phú để dọc theo con phố Phùng Hưng. Tôi đã biết con phố này với món bún đậu và bánh đa cua ngay đầu gần tháp nước Hàng Ðậu. Dừng ga Long Biên (Paul Doumer) phía sau lưng chợ Ðồng Xuân, tàu lại ì ạch qua cầu Long Biên vượt sông Hồng. Con sông Hồng đây vốn gọi là sông Cái, hay có lẽ mọi con sông lớn ở Việt Nam đều gọi là sông Cái. Trong bóng tối nhập nhòa, tôi chẳng thể nhìn thấy màu đỏ phù sa của nó.
Nhân viên trên tàu đẩy những chiếc xe đẩy với những snack mà ở miền bắc Việt Nam, mọi người vẫn quen gọi chung tất cả là “bim bim”, những bánh mì mặn ngọt trong túi nylong và nước ngọt Coke, Fanta, Twister… Rút ngắn thời gian hành trình là sự vất vả gian khổ nhất và cũng là thành công nhất của đường sắt Việt Nam trong chặng đường đổi mới. Nhưng thế chưa đủ. Còn phải xây dựng nhà ga, đoàn tàu theo tiêu chí “văn hóa – chính quy – an toàn”. Kết quả là đã từ lâu không còn cảnh bán hàng rong trên tàu. Một anh nhân viên gõ cửa vì cabin được chốt trong. Mỗi giường có một công tắc riêng để bật đèn đọc sách và vài cái móc treo đồ. Giường tầng trên có chỗ để hành lý và túi xách trên một ngăn thuộc cabin. Giá vé tàu tầng 1 hay tầng 2 đều là 380,000 đồng nên thường là vé tầng 1 được rao bán cho các đại lý, khách sạn những “đầu mối” để ăn chênh lệch. Chuyến đi lên Lào Cai, tôi mua vé trực tiếp tại ga và chỉ còn vé tầng 2 mua đúng giá 380,000 nhưng chuyến về dù giá vé chính thức là 380,000 cho giường tầng 1 đặt qua khách sạn mà ở tại Sa Pa là 500,000 đồng. Vì không có sự chênh lệch về giá giữa tầng 1 và tầng 2 nên những ai muốn mua vé tầng 1 phải rút hầu bao riêng.
“Chỉ nói về cái giá vé toa giường nằm, cũng đủ thấy sự chênh lệch của các ‘hoạt động lữ hành’ tại sân ga Hàng Cỏ này”. Chàng Pha, lại bồi thêm một kiến thức thực tế!
Suy tưởng vẫn ầu ơ trên chuyến tàu đêm xập xình, những giai điệu mang màu sắc retro của thập niên 80, 90 phát ra từ cái loa tàu cổ lỗ sĩ. Những chuyến đi ngắn/dài tựa nhịp ngắt của dòng đời. Có lúc, tôi cảm giác mình như cánh chim chiều muộn, phong phiêu mặc mùa.
Tôi mang cả cơn đuối ngày vào giấc ngủ giữa những âm thanh xình xịch.
Sáu giờ sáng. Mùi sương gió biên thùy khiến tôi trở thành như người mạn ngược, gạt bỏ thói quen văn minh coi giờ. Mặt trời chớm hửng nắng trong sương, tôi chắc mẩm ngàn năm trước những người Dao, Mông vẫn ngửi sương hóng ông mặt trời mà dậy lên nương làm rẫy.
Tôi quên béng lời hỏi han gã đồng bọn về giấc ngủ nhàu nhĩ khuya qua trên chiếc giường tàu. Chỉ vội nhờ chàng vài cú bấm máy lưu niệm trước cái biển ga Lào Cai.
Ðoàn caravan lên Lào Cai – Sapa đã đợi sẵn bọn tôi. Những liên tưởng đến hành trình của những người buôn trên sa mạc Trung Á, của con đường tơ lụa, hay như những chuyến hành trình vượt biển Ðịa Trung Hải của các nền văn minh. Lào Cai, Sa Pa, đất của Mười Hai Xứ Thái- Sip song chau Tai, vùng đất của các lãnh chúa người Thái, người Mông, người Dao… Những bức tranh lịch sử kéo tuột tôi về hàng trăm năm trước của những đoàn xe thồ, hay những con thuyền vượt lên mạn ngược sông Hồng.
Trên sân ga Lào Cai, những khuôn mặt lạ trôi ngang qua những bọng mắt còn ngái ngủ. Chuyến xe về Sapa, chỉ vài mống gà thức sớm.
Tôi lóng ngóng, thấy nơi mắt mình những ngỡ ngàng vẫn chưa kịp cất giấu. Ðã nghe lanh lảnh giọng mời trà gừng, “Chị này ơi, uống tách trà gừng cho ấm bụng, đỡ say xe khi lên đèo!”
Ðmh – https://www.facebook.com/hanhphoto