Nguyễn Đạt sinh năm 1945 ở Vĩnh Yên. Bắt đầu làm thơ và nổi tiếng từ trước 1975. Ông cũng là sĩ quan Quân Lực VNCH. Hiện ở trong nước và tiếp tục làm thơ, viết tùy bút và truyện ngắn đăng trên các trang mạng ở hải ngoại như Tiền Vệ, Da Màu, Phố Văn. Nguyễn Đạt thỉnh thoảng cũng viết cho nhật báo Người Việt ở Cali. Gần đây, năm 2015, nhà xuất bản Giấy Vụn ở trong nước cho in tập thơ của Nguyễn Đạt có tựa đề là Dran với phụ bản của Đinh Cường.
Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu một tùy bút đặc sắc của Nguyễn Đạt.
NGUYỄN & BẠNHỮU
Nhật ký dã quỳ
Hoa cỏ nào chẳng là con đẻ của thiên nhiên. Có những thứ hoa, con người dời về ở chung, đặt tên và gắn cho một ý nghĩa, trưng bày trong phòng khách, gửi trao nhau… Vô vàn loài hoa khác ở lại rừng, ở lại bất kỳ nơi nào chúng đã tự mọc lên, dù ở đấy cũng có thứ hoa con người đã đặt cho danh tính trong một trường hợp có thể là vớ vẩn, ngẫu nhiên.
Bạn tôi, Ðăng, một người mà tôi ngỡ mình biết rất rõ, thật ra tôi chỉ đọc thơ của anh, đều là những bài thơ nhắc tới dã quỳ, và một nơi chốn, thị trấn Dran (trong đó có Tutr’a; và gọi chung là Ðơn Dương). Tôi đã tin mình biết rõ loài hoa dại ấy chỉ sống ở vùng thị trấn Dran. Hóa ra không phải. Dã quỳ không những có ở khắp miền cao nguyên B’Lao – Di Linh – Ðà Lạt – Ðơn Dương…, mà còn có ở khắp nơi. Chị Ý Nhi, một nhà thơ từ miền Bắc vào miền Nam sau ngày đất nước gọi-là-thống-nhất, một nhà thơ khả ái hiếm hoi mà tôi quen thân, nghe tôi đọc một bài thơ của Ðăng, hỏi tôi: “Dã quỳ là gì vậy?”
Tôi hăm hở nói về loài hoa man dại ấy, mô tả nó, pha lẫn trong đó chút đắng cay phẫn nộ. “Vậy là tôi đã thấy nó -chị nói-, nhiều cực kỳ trên rừng Việt Bắc.”
Tôi cũng đọc được, trong một tập truyện ngắn của nhà văn Sơn Nam, dù chỉ trong một dòng chữ, nhắc tới cây hoa dã quỳ, trơ trụi phất phơ trên mỏm đất giữa đồng nước bao la của Cà Mau. Trong thơ Ðăng thì như có cả rừng dã quỳ vàng rực ngây dại.
Sau này tôi được đọc một số bài thơ về dã quỳ của vài nhà thơ, nhưng không thấy niềm say mê bí ẩn, mối ám ảnh kỳ dị, như trong những bài thơ về dã quỳ của Ðăng.
Tôi mang câu chuyện về hoa dã quỳ nói với Ðăng. Anh thản nhiên bảo:
– Tôi thậm chí thù ghét thứ hoa ấy. Chẳng qua tôi gặp nó trong cơn đói mà thôi. Ngạc nhiên, sau đó tôi nghĩ rằng yêu quá hóa ghét, cái tâm lý này vẫn thường xảy ra trong bụng dạ đầu óc con người. Nhưng tôi cũng bối rối khi Ðăng bảo anh đã gặp hoa dã quỳ trong cơn đói. Anh nói theo nghĩa đen hay nghĩa bóng? Ðăng như đoán được ý nghĩ của tôi, anh nói tiếp sau đó:
– Tôi đã ăn vào bụng ít nhất vài chục bông dã quỳ.
– Anh nói thật sao? Hoa dã quỳ ăn được?
Cả vẻ mặt và giọng nói của Ðăng đều nghiêm chỉnh:
– Tôi nói thật. Năm…, tôi sống lang thang ở Ðà Lạt, kiếm tiền sinh nhai bằng đủ mọi cách. Tất nhiên có lúc chẳng có cách nào kiếm tiền để ăn bữa cơm. Lang thang trên một trái đồi, mỏi chân, tôi ngồi nghỉ bên khóm dã quỳ. Chẳng phải là tôi chọn khóm dã quỳ ngồi nghỉ cho thơ mộng. Tôi không thể không ngồi bất cứ chỗ nào khi đôi chân đã rã mỏi và bụng đói cồn cào, khi không còn đi được đâu mà đi. Tôi ngó khóm hoa dại, thấy đàn kiến xúm xít trên những cánh hoa vàng tươi đậm. Chúng cong mình nhấm hút trên cánh hoa, chắc hẳn là ngọt. Tôi lựa vài bông, phủi sạch những con kiến trên đó, cho vào miệng nhai ngấu nghiến. Ăn cũng được đấy, cũng no bụng. Tôi đã nghĩ, lúc nào đói bụng mà không có thực phẩm của con người, tôi có thể giải quyết cho cái dạ dày như con dê, con bò, con ngựa. Tôi cho rằng cơn đói khát không bao giờ nên thơ cả, mà nó sẵn sàng biến con người thành con vật.
Nghe Ðăng nói một thôi một hồi như vậy, tôi hiểu tại sao anh thậm chí thù ghét thứ hoa này. Anh đã liên tưởng dã quỳ tới cơn đói. Hóa ra không phải. Anh nói:
– Loài hoa dã quỳ giống như kẻ phỉnh gạt.
– Nghĩa là… hoa dã quỳ không ăn được? Anh đã bị đau bụng hoặc nôn mửa sau khi nhai nuốt chúng?
Ðăng lắc đầu, chán nản:
– Không phải vậy. Ðấy hoàn toàn là câu chuyện khác.
o O o
Ðấy là Uyên, cô gái người dân tộc Thái trắng, sinh ra ở Than Uyên – Lào Cai, người tôi yêu thương đầu tiên và cuối cùng trong đời. Cô gái miền sơn cước này, đối với tôi, chính là linh hồn của đóa dã quỳ. Tôi đã xô nàng xuống vực thẳm ở Tutr’a – Ðơn Dương, trong một cơn cuồng nộ thậm vô lý mà tôi hoàn toàn không kềm chế được. Ðăng nói như vậy.
Và Ðăng kể lại, anh đã xô cô gái xuống vực thẳm như thế nào, trong cơn cuồng nộ vô lý của mình. Vẻ mặt anh không biểu lộ một nét xúc động, đôi mắt anh trông vẫn như buồn ngủ không khác lúc bình thường.
Tôi rùng mình, tự hỏi: Ðăng như vậy sao? Giống một kẻ sát nhân chuyên nghiệp, một tay giết mướn. Chỉ có loại người ấy, bọn sát thủ ấy, mới có thể bình thản kể lại chuyện giết người. Một kẻ như vậy mà làm thơ? Hóa ra những bài thơ Ðăng viết về dã quỳ, về Tutr’a, về Dran… đã tạo nên niềm say mê bí ẩn, mối ám ảnh kỳ dị. Chính vì vậy đó, vì anh là kẻ sát nhân lạnh lùng. Tôi lại nghe Ðăng nói:
– Trong nhiều năm, dã quỳ và Tutr’a và Dran đối với tôi như nỗi-chết-không-rời. Ðến bao giờ tôi dứt được mối ám ảnh đó. Bao giờ tôi nguôi được nỗi ân hận đã đẩy Uyên xuống vực chết. Tôi cứ quanh quẩn nơi chốn ấy. Nơi chốn ấy đối với tôi không khác một hình phạt. Crime et châtiment. Ðúng như vậy. Kẻ sát nhân bao giờ cũng thế. Hắn không thể rời, thoát khỏi nơi hắn đã gây án mạng.
Tôi nghe Ðăng nói mà không một chút xót thương. Anh nói như một cái máy vi tính hiện lên màn hình những dòng chữ kể một câu chuyện ghê gớm, một câu chuyện kinh khủng. Tôi khiếp sợ, và chỉ có nỗi khiếp sợ ấy mà thôi. Tôi tự hỏi: loài hoa dã quỳ đã phỉnh gạt Ðăng ở chỗ nào? Ðăng chợt cười rộ, nhìn tôi và nói:
– Có phải anh đã nghĩ tôi là kẻ sát nhân thứ thiệt? Rằng tôi không hề xúc động khi kể lại câu chuyện giết người?
Trong lúc tôi thán phục trí thông minh của Ðăng, anh có thể đọc được ý nghĩ của tôi, thì anh không nói gì thêm nữa. Anh lẳng lặng lấy ra từ túi áo choàng một bức thư. Thư của Uyên gửi về từ hải ngoại. Uyên đang sinh sống ở Hoa Kỳ. Uyên bên kia bờ Ðại Tây Dương. Ấy vậy mà, mối ám ảnh, nỗi ân hận, đã đeo riết tâm tưởng Ðăng trong từng ấy năm.
– Anh đã đọc hết rồi chứ? Bức thư này tôi nhận được sau từng ấy năm. Tôi nào biết được, bụi dã quỳ dày đặc dưới vực đã đón Uyên khi tôi xô cô ấy xuống. Và vị cứu tinh người thiểu số đi kiếm cây làm củi đốt, đã giúp Uyên lên lại an toàn. Tất cả những điều ấy, tôi hoàn toàn không biết, ngoài cái hành động xô Uyên xuống vực.
o O o
Sau này Ðăng còn làm thơ về dã quỳ, những bài thơ ấy đã khác hẳn trước. Ðăng nói:
– Bởi đâu còn cái chết ám ảnh, đâu còn nỗi ân hận giày vò. Và bởi sau này tôi gặp một người đem lòng yêu tôi, tình nguyện theo tôi về rừng, tìm đến những đóa dã quỳ để ấp ủ yêu thương, như ấp ủ yêu thương vẻ đẹp hồn nhiên hoang dã của đất trời.
NĐ – Nguồn: Da Màu