Menu Close

Yên Bái xưa và bây giờ

Yên Bái ngày xưa. Hôm qua đọc tin trên Người Việt Online, nghe Ðinh Quang Anh Thái nói chuyện với Ngô Nhân Dụng tức nhà thơ Ðỗ Quý Toàn về “Những nghi vấn trong vụ án Yên Bái”. Mở đầu nhà bình luận Ngô Nhân Dụng nhìn thấy ở hai từ Yên Bái một cái gì đó của Hồn Thiêng Sông Núi, ông nghĩ đến 13 liệt sĩ Quốc Dân Ðảng bị xử tử tại đây và như còn nghe Nguyễn Thái Học hô to trên pháp trường “Việt Nam Muôn Năm”. Với Nguyễn và những người cùng thế hệ cũng thế, khi nghe tới cái tên linh thiêng Yên Bái là nghĩ tới anh hùng Nguyễn Thái Học và các liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Ðảng. Nguyễn cũng đã có viết một truyện ngắn lấy tên Tào Khê Nước Chảy nói về cuộc tình của Nguyễn Thị Giang và Nguyễn Thái Học. Trong truyện ở phần cuối tả cảnh Nguyễn Thị Giang đứng trên một ngọn đồi ở Yên Bái nhìn cảnh bọn lính Pháp dẫn Nguyễn Thái Học và các liệt sĩ ra pháp trường dưới trời nắng lửa xử trảm và tiếng người yêu trong phút cuối hô to tên Việt Nam trước lưỡi kiếm vung lên. Về tới nhà trong đêm ấy, Nguyễn Thị Giang dùng cây trâm cài tóc của người yêu tặng đâm sâu vào lồng ngực tự vẫn.

Với Nguyễn cái tên Yên Bái còn gợi lên hình ảnh những năm tháng đi tù cải tạo bị đưa ra Miền Bắc. Ðó là vào năm 1976 từ trại Long Giao và lúc nửa đêm xe molotova tới chở cả mấy trăm người ra tân cảng Sài Gòn lùa xuống tàu Sông Hương. Từ đó trải qua ba ngày ba đêm nín đái nín ỉa dưới hầm tàu mới ra tới bến Hạ Lý Hải Phòng. Sau vài ngày nằm trong hangar ở Hạ Lý, một buổi chiều cả đoàn người bị lùa lên những toa xe lửa chở thẳng lên núi rừng đất Bắc. Trải qua một đêm bị nhốt trong toa súc vật đóng kín có người bị chết vì ngộp thở. Trưa hôm sau tàu đến Yên Bái. Dưới mắt những người tù năm ấy Yên Bái chỉ là một thị trấn nhỏ bé. Ðoàn tù được chia ra làm hai, một nửa qua sông Hồng hướng về Sơn La, một nửa ngược lên Thác Bà qua phà đi về phía Cẩm Nhân. Tới đây khởi đầu giai đoạn đày ải, rừng thiêng nước độc. Trại Cẩm Nhân nằm cạnh một con suối, trước mặt là dãy núi cao chớm chở, ngày ngày Nguyễn và các bạn tù phải leo qua sườn núi, phá rừng làm rẩy. Bữa ăn chỉ có bát bo bo và mấy hạt muối sống. Ði cầu thấy phân màu đỏ tím lẫn xác bo bo chưa tiêu hóa. Lên núi hái thêm rau rừng để ăn thường là rau tàu bay. Ðôi khi hái trộm bắp của trại, đốt lửa nướng lên ăn. Ngày tháng xanh lướt rau rừng và tiếng chim “bắt cô trói cột”. Vậy mà cũng có thơ. Khi hoàng hôn xuống, Nguyễn cùng Tô Thùy Yên thường ngồi nghỉ chơi ở đầu lán trại. Thỉnh thoảng thấy trăng lên trên đỉnh núi, sáng tỏa rực rỡ như có tiếng kêu. Tô Thùy Yên hứng khởi đọc Ðiểu Minh Giản (Khe chim kêu) của Vương Duy thi nhân đời Ðường, trong có câu Nguyệt xuất kinh sơn điểu (trăng hiện lên khiến chim núi giật mình). Nhiều hôm rảnh rỗi, Tô Thùy Yên cặm cụi chép bài thơ Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ của Trương Nhược Hư đưa cho Nguyễn xem. Mùa đông đầu tiên ở Cẩm Nhân lạnh ơi là lạnh. Ðêm tù phải đốt lửa trong lán sưởi ấm và Nguyễn nghe được tiếng đàn của một nhà sư đi tù. Do đó mà có bài Ðốt Lửa Nghe Sư Ðàn. Lâm Chương lúc đó ở cùng trại đã ghi lại như sau trong bài tản văn Con Suối Và Chiếc Cầu Treo:

Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp có bài Ðốt Lửa Nghe Sư Ðàn. Ðọc lên cứ nghe rờn rợn. Nó gợi lại trong tôi một nơi chốn quen thuộc. Không gian, thời gian của những mùa đông rét mướt, áo quần không đủ che thân. Ðêm đông trong lán trại lợp bằng nứa, lạnh quá không ngủ được, tù ngồi hơ tay bên đống lửa. Tiếng nói chuyện thầm thì như hơi gió. Tâm sự tràn trong đêm khuya. Thỉnh thoảng nghe tiếng mang mễn “béc” ngoài đồi tranh cô quạnh, tiếng kêu buồn héo cả ruột gan.

Nguyễn Xuân Thiệp thai ghén và làm bài thơ này từ năm 1977 đến năm 1988. Mười một năm ròng rã, dốc hết tâm huyết cho một bài thơ đầy nội lực. Hèn nào đọc lên, tôi thấy như mình đang sống trong căn lán ẩm thấp vào một mùa đông lạnh ướt xưa kia. Anh Thiệp cho biết, đã từng ở trong cái trại có con suối chảy sát ngoài hàng rào. Trước cổng trại, chếch về phía bên trái, sát chân núi có một ngôi nhà sàn. Nhà núp trong cây. Những buổi sáng lành lạnh trời còn mù sương, đến thật gần mới thấy ngôi nhà hiện ra trong làn sương đục. Cảnh đẹp như tranh, mơ hồ như ngôi nhà trong cổ tích. Hóa ra, cái trại Nguyễn Xuân Thiệp mô tả, chính là trại Tô Thùy Yên và tôi từng ở đó…

Trong Ðốt Lửa Nghe Sư Ðàn, Nguyễn Xuân Thiệp có nhắc đến con suối, đốt lửa bên trong lán suối. Cuối bài, kết thúc bằng trăng lên rồi. hổ xuống cẩm khê. Cẩm Khê là một địa danh thuộc xã Cẩm Nhân. Xã ở miền cao, có nhiều suối mùa. Nhưng con suối thiết thân gần gũi với chúng tôi ngày ấy là con suối Nguyễn Xuân Thiệp nói trong thơ. Bây giờ, đọc thơ anh, tôi cảm giác như cái lạnh còn thấm tới xương, và còn mường tượng được cái không khí u uất trùm lên lán trại vào những đêm khuya nghe cú rúc. Tiếng cú như tiếng ma kêu sầu thảm, báo điềm có kẻ tử vong (Lâm Chương).

Bài Ðốt Lửa Nghe Sư Ðàn nguyên văn như sau, xin ghi lại như một kỷ niệm thời đi tù Yên Bái:

Đốt lửa nghe sư đàn

đốt lửa. chừng như người qua khe

mùa đông. tím những nương mưa

đốt lửa bên trong lán suối

mưa. mưa. trên con đường núi

có ai tìm vầng trăng mọc khuya

rét. đói. sầu miên. đất. đá. gỗ

đầm sấu hoang. lau thắp. bến chờ

 

lửa đã cháy. cháy trên củi ướt

tù ngồi hơ tay. nghe cổ tích

chuyện đường huyền trang đi thỉnh kinh

bỗng trong đêm. rộ tiếng ai đàn

lửa củi soi. nhà sư mặt ốm

kể từ sư rũ áo đi đày

cái tâm mây nổi. trăng thiền đạo

cuộn cuộn trường giang. sóng lục đầu

đầm cỏ. nước in. thân cò vạc

bắt cua. vồ nhái. ngày qua ngày

đêm đêm. ôm đàn trong xó tối

 

năm ngón tay gầy. tiếng thổ cầm

sư ngồi đàn. như cây trăm năm

lửa cháy. xèo xèo. mùi nhựa ngái

khói tỏa. mù khe. màu cỏ rối

dạo đàn. mưa thu rơi trong trăng

tiếng mau. chim bay qua mùa đông

đàn ánh thép xanh. gươm phạt trúc

gỗ nổi. đá lăn. trâu bứt gốc

hồn u. mả tối. đây là đây

rạng tiếng ngư dương. thơ quỷ đọc

lán sâu. bếp ảo. lửa đào lay

 

cây đàn gỗ xưa. như mặt trăng

năm ngón tay gầy. như chim ưng

bật dây. rỏ máu. hoàng hôn rừng

gọi những mùa đi không trở lại

đàn qua. tiếng buồn trong lau sậy

gió thu. đưa võng. ai chờ ai

đêm cẩm khê. đàn trong u độc

 

người nghe đàn. khơi lửa đỏ khuya

tóc râu tiền kiếp. đầm hơi mưa

bỗng thấy. sân nhà. cây sứ gãy

năm cửa ô quan. ngấn lệ mờ

những nẻo chiều sương. người rách rưới

những mái nhà. mưa xoi. nắng dọi

lọ rơi. sành vỡ. lục cục âm

khuya rồi. ai đẽo gỗ huỳnh đàn

ửng sắc hoa gầy. trên áo quan

 

sư bỗng ngừng đàn. nhìn đống lửa

gốc cây. cháy như đầu thiên cổ

huyễn huyễn. củi tàn. màu kinh xưa

mặt đất chừng qua cơn mộng dữ

nên ngón tay gầy. như ngó sen

hơi đàn trôi trong hương lá xanh

đàn ngân. cánh chim soi trên đầm

mùa hoa mơ nở. trắng non ngàn

từ trong động ấy. giờ trăng mọc

ánh trăng. chảy vàng trăm cửa sông

 

bếp rụi. lửa riu. âm đàn dứt

trăng lên rồi. hổ xuống cẩm khê

NXT

Kỳ tới: Yên Bái bây giờ