Tên thật Lê Nghiêm Kính. Sinh năm 1937 tại Huế, học trường Khải Ðịnh và trường Quốc Gia Sư Phạm Saigon. Giáo sư Nguyễn Hoàng Quảng Trị, phụ trách tờ nguyệt san Sổ Tay Sư Phạm.
Sĩ quan khóa 16 Thủ Ðức. Ra trường phục vụ tại Nha Chiến Tranh Tâm Lý. Những năm cuối cùng trong quân đội, ông là Trưởng Phòng Chính Huấn và Tâm Lý Chiến tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
Sau tháng 4.1975, Huy Phương đi tù cải tạo 7 năm và đến Hoa Kỳ cuối năm 1990. Ông làm nhiều nghề để mưu sinh. Hiện định cư ở California.
Khởi viết năm 15 tuổi (1952), đã có thơ và tùy bút đăng trên tuần báo Ðời Mới. Ở trong nước, Huy Phương đã có hai tác phẩm: Mắt Ðêm Dài (thơ) năm 1960 và Mây Trắng Ðồn Xa (truyện) năm 1966. Ðến Mỹ, ông tích cực hoạt động trong ngành báo chí, truyền thanh và truyền hình. Sở trường về Phiếm và Tạp Ghi.
Những tác phẩm đã xuất bản tại Hoa Kỳ:
– Nước Mỹ Lạnh Lùng, 2003
– Ði Lấy Chồng Xa, 2006
– Ấm Lạnh Quê Người, 2007
– Nhìn xuống Cuộc Ðời, 2009
– Hạnh Phúc Xót Xa, 2010
– Những Người Muôn Năm Cũ, 2010
– Những người thua trận, 2012
– Chúc thư của một người lính chết già (thơ), 2013
– Ngậm ngùi tháng tư, 2014
Ðọc tập thơ “Chúc Thư Của Một Người Lính Chết Già” của Huy Phương, ta nhận thấy hơi thơ lãng mạn của thời Ðời Mới và Mắt Ðêm Dài vẫn còn thấp thoáng trong một vài câu, vài đoạn còn phần lớn tập thơ in đậm dấu vết thời thế từ 1954 ra đến hải ngoại bây giờ. Nào chiến tranh, lui binh, tù cải tạo, vượt biên, cuộc sống nơi chốn định cư tại Hoa Kỳ. Thơ Huy Phương đầy giọng oán trách. Trách mình không trọn tình trọn nghĩa với cha mẹ, anh em, bè bạn, không tròn nhiệm vụ trai thời chiến, bỏ nước ra đi, trách ai bỏ quên đồng đội mưu cầu giàu sang và tự do cho riêng mình. Ông tự thấy mình không xứng đáng với màu cờ tổ quốc. Không chỉ có giọng oán trách, thơ Huy Phương đây đó còn vương nỗi hoài cảm và tiếc nhớ bâng khuâng. Nhờ vậy được ưa thích hơn.
Có thể nói Huy Phương trong Chúc Thư… đã nói lên tâm trạng và suy nghĩ của nhiều người do đó được anh em đồng hội đồng thuyền đón nhận.
SAO KHUÊ
Nhớ Huế
Mùa này nước Hương Giang có mặn
Muối đại dương có thấm vào sông?
Từ ngày anh đoạn tình bỏ Huế
Nguồn xa đã lạc mấy trăm dòng!
Mùa này Huế còn mưa tầm tã
Thương quê xưa vẫn nỗi đói nghèo
Anh ở nơi này vùng nắng ấm
Vẫn nhớ hoài đời Mẹ gieo neo.
Mùa này quê có còn bão lụt
Chén cơm em còn độn sắn khoai?
Trên tiệc rượu người con xa xứ
Men nồng nào lẫn nước mắt cay.
Mùa này Huế có còn phượng đỏ
Tiếng ve nào gọi nỗi buồn xa
Nơi này cả một trời hoa tím
Nhớ em xưa tiếng guốc học trò.
Mùa này Huế có còn áo trắng
Em hiện thân làm bướm tan trường
Thương ngày tháng một thời niên thiếu
Huế bây giờ – Huế đã mù sương!
Huế của tôi giờ đâu còn nữa
Cảnh vô hồn khuất nẻo người xưa
Hồn cổ tích Hoàng Thành hoang phế
Tiếng chim khuya gọi bóng trăng mờ…
Mỗi bước xa
mỗi nỗi nhớ gần
Mỗi bước xa, mỗi nỗi nhớ gần
Ngập ngừng em chậm bước qua sân
Cỏ may đan vướng chân em lại
Lòng nhớ nhung hay mắt khóc thầm.
Nhìn lại năm năm trời cách biệt
Ðậm buồn trên nét mặt người yêu
Trong hơi nắng ấm còn ươm lạnh
Em có nghe lòng chớm quạnh hiu.
Trên chuyến xe về miền nắng ấm
Em qua những thành phố lên đèn
Em đi những con đường mùa hạ
Kỷ niệm nào em chẳng nhớ tên.
Em có nhớ một thời tuổi trẻ
Thoáng qua mau như nắng buổi chiều
Em có hát thầm nghe nho nhỏ
Bản nhạc nào thuở bắt đầu yêu?
Có phải càng xa em càng nhớ
Những lời cho lúc dỗi hờn nhau
Giờ không bên cạnh người thương nữa
Em chẳng nỡ nào thấy giận lâu.
Em sẽ trở về trên lối cũ
Từng bậc thang, rèm cũ quen xưa
Saigon vẫn những chiều mưa gió
Chăn áo đâu che lạnh cho vừa.
Anh gọi tên em trong nỗi nhớ
Từng đêm từ lúc giã từ nhau
Với anh tất cả như nguyên thủy
Tươi mát hương hoa lúc buổi đầu.
25/7/80 – Tân Kỳ- Nghệ Tĩnh
Buổi thăm nuôi đầu tiên
Chúc thư
Tôi người lính già ở xa tổ quốc
Xa chiến trường lưu lạc tới đây
Nơi quê người sương pha tuyết đổ
Mang nỗi đau con ngựa lạc bầy.
Ngày tôi bỏ đi, bạn bè đồng đội
Vẫn hiên ngang cho đến phút sau cùng
Ðã tự hiến thân mình cho tổ quốc
Thắng hay thua thì cũng vẫn can trường.
Không phải chỉ chịu ơn người đã chết
Tôi như còn mang món nợ nước non.
Chết không nghĩa là đã tắt hơi thở
Sống đôi khi cũng có nghĩa chết mòn.
Khi tôi chết ván hòm xin đậy nắp
Có vui chi nhìn người lính chết già
Hổ thẹn đã không tròn ơn nước
Tiễn tôi chi, thêm phí một vòng hoa.
Hãy quên tôi, người lính già lưu lạc
Ðừng phủ lá cờ tổ quốc cho tôi
Anh em tôi trong những giờ tuyệt lộ
Nằm lại bờ lúc chiến hạm ra khơi.
Chiến hữu tôi chết đầu sông cuối biển
Ngày tan hàng đành nằm lại quê hương
Không ai trổi cho khúc kèn truy điệu
Không có ai phủ giúp ngọn cờ vàng.
Hãy phủ cờ lên nấm mồ tử sĩ
Xác bị xới đào trong nghĩa trang xưa
Hãy rải hoa trên con đường thấm máu
Phút lui binh phải gãy súng buông cờ.
Anh là ai, mang ngọn cờ tổ quốc
Nhân danh ai, đứng phủ lá quốc kỳ.
Chúng ta là những con người bỏ ngũ
Quên anh em nằm lại, để ra đi.
Ta lành lặn để bao người thương tật
Ta sum vầy đành để bạn chia phôi
Ta đến bến để bao người chết biển
Dù ấm êm cũng thương nhớ một đời.
Danh dự này dành cho người đã chết
Ðã hy sinh để giữ vững ngọn cờ
Không phải tôi, người lính hèn bỏ ngũ
Ðể sống còn trong lúc bạn sa cơ…
(trích Chúc Thư Của Một Người Lính Chết Già)