Menu Close

Blair Witch

Người đàn bà trẻ tuổi la toáng lên trong rừng cây vào buổi tối, và cô ta vừa bị hù một cú bay hồn vía bởi một người bạn bất ngờ xuất hiện trước mặt, trên tay cầm đèn pin sáng ngời. Sự nổi cáu của cô ta cũng dễ thông cảm.

Sự bực bội của cô cũng được chia sẻ bởi những người đã trả tiền để đi coi phim “Blair Witch”, trong đó cô ta đóng vai chính. Như bạn cũng có thể đoán từ cái tựa, phim này là phần hậu kỳ của phim kinh dị “The Blair Witch Project “nổi bật của năm 1999.

Một phim có nội dung từ những đoạn video “bị thất lạc” đã được quay bởi 3 sinh viên làm phim, The Blair Witch Project đã được sản xuất với số tiền rẻ mạt $60,000 nhưng đã thu lời gần $250 triệu trên toàn cầu. Vì vậy, nó là một hiện tượng hoàn toàn không nên được làm lại: Bất cứ phim hậu kỳ nào, theo định nghĩa, cũng sẽ là một sự kéo dài của một phim nổi tiếng trước – trái ngược với cái gốc đã tạo nên nó.

Mười sáu năm sau, Lionsgate quay trở lại để “hưởng thêm một miếng”. Và trong khi Blair Witch (được làm với một số tiền đầu tư khá “thanh đạm” $5 triệu) không hẳn là một thất bại nặng nề, nó cũng chẳng là một thành công nào đáng kể.

Vấn đề chủ yếu của phim này là ngoài một vài đoạn khoa trương đập ngay vào mắt người xem, nó gần như trung thành một cách “nô lệ” với phim gốc.  Ðó là  cảnh bốn người bạn tự dưng muốn đi dạo vào khu rừng Black Hills dầy đặc ở Maryland để tìm mụ phù thủy Blair Witch huyền thoại. Lần này, một thành viên của nhóm (James Allen McCune) là người em trai của cô gái đã mất tích trong phim đầu; một thành viên khác (Callie Hernandez) là người thích ghi chép tài liệu; và hai người khác (Brandon Scott, Corbin Reid) là hai người bạn đi theo thôi. Nhóm tứ quái sớm gặp hai người bạn trẻ trong khu vực (Wes Robinson, Valorie Curry) tự nhận rằng họ đã khám phá ra đoạn quay phim về phù thủy.  Họ cắm trại lại trong khu rừng.

Nhóm này tiến vào rừng, nơi – mà nếu bạn đã xem phim đầu, bạn cũng biết kha khá chuyện gì sẽ xảy ra. Ban ngày họ bị rối loạn về địa điểm của họ; ban đêm những tiếng động đáng ngại, những cú giật mình vì những cái bất ngờ, sự xuất hiện của những đống đá, những hình dáng như những cây gậy, và cuối cùng là sự mất tích của những người đồng hành.

Như đã nói trên, các vai chính bỏ ra rất nhiều thời gian chạy vòng vòng trong rừng để hù nhau với đèn pin, cảnh xuất hiện một căn nhà âm u mục nát ẩn giấu giữa rừng ở đoạn cuối phim… Quả thực, Blair Witch đi theo phim gốc chính xác đến nỗi đôi khi có vẻ như phim này có dụng ý gợi lại những ký ức của phim trước hơn là tự đứng một mình.

Trong khi ba người thám hiểm huyền bí của phim đầu là con số vừa phải, phim này tới sáu người, thì quá nhiều. Không một nhân vật nào được dựng lên có cá tánh gì riêng biệt, và khán giả chỉ hơi hơi quan tâm tới sự sống còn của họ. Phim The Blair Witch Project dành một lượng thời gian khá nhiều cho cảnh phỏng vấn người địa phương, gặp gỡ với mấy người câu cá, sự chia sẻ về chuyện cổ tích rùng rợn và giới hạn đoạn chót tại Căn Nhà Trong Rừng còn chỉ vài phút. Blair Witch thì  đảo ngược lại sự nhấn mạnh này – và bất chấp quy luật của loại phim kinh dị là: những gì bạn không thấy có lẽ luôn luôn đáng sợ hơn những gì bạn thấy – bằng cách đưa các vai chính vào trong rừng gần như ngay lập tức và sử dụng quá nhiều thời gian cho cảnh tại căn nhà đổ nát của mụ phù thủy.

Cho rằng sự tiến bộ về kỹ thuật máy móc cá nhân đã nhảy vọt trong mười lăm năm nay, Blair Witch đã cũng nâng cấp dụng cụ của những người cắm trại trong phim. Nhưng cuốn phim làm điều đó một cách hỗn tạp, với máy liên lạc tối tân, máy quay phim gắn trên lỗ tai, máy chụp hình gắn trên cây, và cả một chiếc máy bay điều khiển không dây (drone) trong một khu rừng dày đặc. Ðó là một  điều quá cường điệu.

Nói đúng hơn, toàn bộ phim này như bị kẹt giữa nhiều kiểu khác nhau, không gợi lên nét trung thực đơn sơ của The Blair Witch Project hoặc nét chu đáo của một phim được sản xuất trong studio.

Thật sự, tất cả những điều này cũng không thành vấn đề nếu Blair Witch có một tí nào tính chất rùng rợn. Những cú sốc thì quá đơn điệu và thường dễ đoán. Trong rạp hát, quanh tôi  có nhiều tiếng cười vang lên hơn là tiếng hoảng hốt sợ hãi, và một cảm giác thất vọng nói chung trong nhóm khán giả.

MP