
Khi lịch sử bị nhìn lệch di sản đi vào khánh kiệt
Có không ít người cho rằng chẳng đáng bận tâm cho lắm nếu loanh quanh trong những giấc mơ chăm bẳm vào đánh nhau trong khi vắng bặt giấc mơ dựng nước, xây đắp văn hóa, kiến thiết kinh tế. Hậu quả của cách thức chúng ta nhìn lệch và viết lệch lịch sử, thực ra, đáng lo ngại hơn nhiều!ài học thiết thực trước hết phải là nhận diện/vạch trần những âm mưu, thủ đoạn của bọn Trần Ích Tắc thời đại. Kẻ nối giáo cho giặc thường là “tác nhân” khởi động cho bất cứ cuộc xâm chiếm nào.
Lịch sử, lẽ ra, là hợp lưu của nhiều dòng chảy trên các lĩnh vực khác nhau trong sự đa dạng của tiến trình phát triển. Văn chương chảy theo quy luật của tiến trình ngôn ngữ, kỹ thuật chảy theo dòng của tiến trình phát minh và dựa trên toán học, mỹ thuật ngoằn ngoèo qua những thác ghềnh của nhận thức về cái đẹp… Nhưng, sử Việt ghi chép chủ yếu dựa theo thời cuộc xoay vần của vua chúa mà thôi, nghĩa là quy chiếu về triều đình. Phát triển thơ văn bị đóng khung trong cách phân kỳ triều đại (thơ văn đời Lý, thơ văn đời Trần…), mà lẽ ra là phải được phân kỳ trong sự biến thiên của thi pháp, của trường phái văn chương.
Nói cách khác, lĩnh vực quyền lực chính trị bao trùm tất cả, giới chính khách quan quyền trở thành bộ mặt nổi bật nhất trong lịch sử. Các danh tướng lỗi lạc, nói cho cùng, cũng vẫn là quan quyền triều đình, thuộc địa hạt chính trị.
Thoạt nhìn lịch sử như vậy, không sai. Nhưng, bị lệch trầm trọng.
Hàng triệu người, trong đó có những tài năng kiệt xuất trong lĩnh vực chuyên môn của mình, đều góp sức tạo nên hợp lực cho cả dân tộc Việt thăng tiến. Nào đâu phải chỉ có vua, chỉ có các chính khách mà làm nên cả thời kỳ lịch sử?
Cách nhìn, cách viết lịch sử quy chiếu vào thăng trầm của triều đại, của quyền lực chính trị, cách nào đó, là bộc lộ não trạng tôn sùng quyền lực chính trị trên hết.
Sự tôn sùng chính trị thái quá dẫn đến cái nhìn chật hẹp, thiếu tầm viễn kiến, và trong nhiều trường hợp là phản văn minh và phi nhân bản.
Câu chuyện về giáo sĩ Alexandre de Rhodes (tên Việt là Ðắc Lộ; sinh năm 1591 hoặc 1593, mất năm 1660) cho chúng ta một dẫn chứng thế nào là sự nhiễm độc “lập trường chính trị” trong lĩnh vực văn hóa. Giáo sĩ Ðắc Lộ đã đi vào lịch sử văn hóa nước Việt bằng công trạng hệ thống hóa, phổ biến chữ quốc ngữ Việt Nam đến với thế giới qua các ấn bản tại Rome: cuốn Tự điển An Nam – Bồ Ðào Nha – Latin và cuốn Phép giảng tám ngày vào năm 1651.

Dai dẳng trong nhiều thập niên, nhiều người mệnh danh là nhà nghiên cứu dưới “ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lê” không ngừng công kích giáo sĩ Ðắc Lộ là mượn chữ quốc ngữ để tiếp tay cho chủ nghĩa thực dân (?). Ðắc Lộ có mặt tại VN trong 20 năm (1625-1645), trong khi chính phủ Pháp mãi sau năm 1820 mới bắt đầu dòm ngó đến việc chinh phục các thuộc địa, riêng đối với VN thì mãi đến năm 1858 Pháp mới nổ súng xâm lược. “Râu ông cắm cằm bà” sai lệch đến hai thế kỷ. Một kiểu tra tấn lý lịch ngược đời và ngược ngạo: người sinh ra ở thế kỷ 17 phải chịu trách nhiệm cho hành vi của kẻ hậu sinh vào thế kỷ 19!
Không thể nói khác hơn là thiếu lương thiện, “ăn cháo đá bát” đối với Giáo sĩ Ðắc Lộ.
Thử nhìn qua nước Nhật. McArthur, người buộc nước Nhật phải đầu hàng, nhưng “một kẻ thù” như ông lại được người Nhật tôn vinh là anh hùng trong lịch sử Nhật Bản thời hiện đại – “Nhờ Tướng MacArthur gieo trồng hạt giống dân chủ mà chúng tôi bước trên con đường hòa bình và thịnh vượng” (Thủ tướng Yoshida).
Tôi muốn nhắc thêm câu chuyện về Pétrus Ký (Trương Vĩnh Ký, 1837-1898). Hơn 41 năm về trước, bức tượng danh nhân Pétrus Ký tọa lạc tại công viên phía sau nhà thờ Ðức Bà. Thế rồi… bức tượng bị bứng đi. Một nền chính trị thực dụng và thiển cận rắp tâm xóa trắng ký ức về một biểu tượng văn hóa lỗi lạc!
Lịch sử VN tìm đâu ra một vị bác học về ngôn ngữ như Trương Vĩnh Ký? Lúc sinh thời, ông được bình chọn là “1 trong 18 nhà bác học thế giới” của thế kỷ 19, được trân trọng ghi danh vào biên niên sử danh nhân toàn cầu trong Tự điển Larousse. Chính trị cộng sản cùng với “nền học thuật” của họ (tôi mở ngoặc kép với hai chữ học thuật, vì làm sao có học thuật thực sự khi thiếu vắng sự độc lập mà chỉ minh họa “bưng bô” cho quan điểm chính trị), trong hàng chục năm qua, liên tục đả kích nhà bác học Petrus Ký là “theo Tây”. Một thể chế ngày càng lộ ra tình trạng phụ thuộc Trung Quốc trên mọi mặt, phụ thuộc một cách thảm hại, kẻ “theo Tàu” như vậy lại đòi lên mặt dè bỉu người “theo Tây”. Chưa bao giờ có một sự mỉa mai lịch sử đến vậy!
Do sự tôn sùng quyền lực chính trị, đảng cộng sản VN bằng mọi giá tôn vinh Hồ Chí Minh là người có công đầu đối với ngành báo chí. Hàng năm giới báo chí nội địa kỷ niệm “ngày thành lập báo chí” gắn với sắc lệnh của Hồ Chí Minh, sau này họ sửa thành “báo chí cách mạng” cho đỡ trơ trẽn. Bởi vì Pétrus Ký mới là người đặt nền móng cho báo chí quốc ngữ VN với tờ báo quốc ngữ đầu tiên Gia Ðịnh báo (năm 1865), ông được coi là “ông tổ nghề báo VN”.
Một vài người bạn ngoại quốc của tôi, trong đó có anh chàng họ Kim xứ Hàn, lấy làm ngạc nhiên vì sao VN có một nhà bác học tầm cỡ thế giới đến vậy mà không tôn vinh? Họ không thể ngờ nổi ở VN cho phép sự kỳ thị dựa trên “quan điểm chính trị” vốn dĩ là thiển cận và bất dung để xỉa xói, thọc ngoáy vào lĩnh vực văn hóa rộng lớn và bao dung.
Khi lịch sử bị nhìn lệch, viết lệch theo chiều hướng tôn sùng quyền lực/quyền lợi chính trị, di sản nước Việt của chúng ta ắt rơi vào cảnh nghèo nàn. Ðó đã là, đang là một thực tế, và nếu còn kéo dài thì từ nghèo nàn sẽ đi vào khánh kiệt.
(*) Xem bảng liệt kê tóm tắt dưới đây:
– Nhà Tiền Lê với Lê Đại Hành chống giặc Tống (từ tháng 1 đến tháng 4 năm 981);
– Nhà Lý với hai lần đánh giặc Tống: lần đầu đánh phủ đầu ngay trên đất Tống (từ tháng 10 năm 1075 đến tháng 3 năm 1076), lần sau chống lại giặc Tống tràn sang (từ tháng 1 năm 1077 đến tháng 3 năm 1077);
– Nhà Trần với ba lần đại thắng giặc Nguyên Mông: lần đầu từ ngày 17 tháng 1 cho đến ngày 28 tháng 1 năm 1258; lần hai từ tháng 1 năm 1285 đến tháng 6 năm 1285; lần ba từ tháng 12 năm 1287 đến cuối tháng 4 năm 1288.
– Nhà Hồ chống lại giặc Minh tràn qua từ tháng 4 năm 1406 đến tháng 6 năm 1407. Sau đó đất nước rơi vào ách đô hộ của nhà Minh, đây là giai đoạn duy nhất trong suốt gần ngàn năm tự chủ nước Việt mới rơi trở lại vào tay giặc Tàu! Nhưng cũng ngắn ngủi, chỉ sau 20 năm liên tục khởi nghĩa chống lại ách đô hộ, người Việt đã giành lại độc lập vào năm 1427;
– Tây Sơn đại phá giặc Thanh tràn qua nước Việt từ cuối tháng 10 âm lịch năm 1788 cho đến mồng 5 Tết Kỷ Sửu 1789.
CQ