Điểm tương đồng trong chiến tranh Việt-Pháp với nội chiến Nam-Bắc là các trận đánh vận mệnh và bi thảm đều diễn ra trên cao nguyên. Chính cao nguyên quyết định số phận của đồng bằng. Tây nguyên trong Nam và miền Thượng du ngoài Bắc. Tháng 9-1951, sư đoàn 312 của Lê Trọng Tấn tiến đánh phân khu Nghĩa Lộ do 1 tiểu đoàn Thái (1er Bataillon Thai) trấn giữ. Trung tướng Raoul Salan, thay thế de Lattre đang công du Hoa Kỳ, thả 3 tiểu đoàn dù xuống Gia Hội, Ca Vịnh, Bản Tú đánh vào đường tiếp vận của Lê Trọng Tấn. Trong hồi ký Đế Quốc Suy Tàn, Salan viết: “Địch tiêu hao 1000 chết, 2500 bị thương, các công điện Việt Minh gửi cho Giáp nhìn nhận 40% cán bộ đại đoàn 312 đã bỏ xác tại trận địa.” Trong hồi ức Đường Tới Điện Biên Phủ, trang 232, Võ Nguyên Giáp công nhận: “Anh Lê Trọng Tấn từ Tây Bắc về báo cáo với Bộ, chiến dịch Lý Thường Kiệt thất bại. Ta diệt và bắt khoảng 500 quân địch, không rõ số bị thương, nhưng lực lượng ta tiêu hao rất nhiều: 253 hy sinh, 964 bị thương, 87 mất tích. Anh Tấn tự nhận là lần đầu tiên chỉ đạo một chiến dịch nên có nhiều sai sót.”
Một năm sau, tháng 10-1952 Vi Quốc Thanh từ Hoa Lục quay lại Bắc-Việt, cùng với Võ Nguyên Giáp tung 3 sư đoàn 308, 312, 316 tiến công Nghĩa Lộ thêm một lần nữa, vẫn do 1 tiểu đoàn Thái phòng thủ. Thiếu tướng tư lệnh Bắc phần de Linarès thả tiểu đoàn 6 Nhảy dù Thuộc địa (6e BPC) xuống Tú Lệ, cách Nghĩa Lộ 30 kms về hướng Tây-Bắc. 48 giờ sau Nghĩa Lộ bị tràn ngập và từ 5 giờ chiều của ngày 19 tháng 10 đến 2 giờ sáng ngày 20, sư đoàn 312 tổ chức 4 đợt tấn công Tú Lệ đều bị nhảy dù đẩy lui. Việt Minh bỏ lại 96 xác chết. Đến trưa Thiếu tá Marcel Bigeard quyết định triệt thoái. Chính trong trận Tú Lệ này, tiểu đoàn 6 Nhảy dù Thuộc địa lập chiến tích: vượt 86 cây số đường rừng từ Tú Lệ về đến Tạ Bú ven sông Đà, trước hai sư đoàn Việt Minh truy sát. Trên sân vận động Mangin Hà Nội, 6e BPC với cấp số phân nửa lính Việt nhận 400 huân chương anh dũng bội tinh. 6e BPC còn là tiền thân của Tiểu đoàn 6 Nhảy dù VNCH, tiểu đoàn sẽ xuống đồi Gió và bắt tay An Lộc tại đồn điền Xa Cam trong mùa hè đỏ lửa 1972. Trần Vũ
Đồng chí Vi Quốc Thanh trong viện trợ Việt Nam đấu tranh chống Pháp (kỳ 6)
Tiến quân lên Tây Bắc
Sau khi về Bắc Kinh, đồng chí Vi Quốc Thanh báo cáo tình hình công tác của đoàn cố vấn quân sự với Lưu Thiếu Kỳ, Nhiếp Vinh Trăn, trình bày ý kiến của mình đối với chiến trường Việt Nam và phương hướng công tác chiến từ nay về sau, được Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân uỷ Trung ương coi trọng.
Do tình hình sức khoẻ của Vi Quốc Thanh không được tốt, trong thời gian ngắn không thể trở lại Việt Nam công tác, Trung ương bèn bổ nhiệm đồng chí làm phó tư lệnh lực lượng Công an. Từ đó, Vi Quốc Thanh dời vào ngôi nhà chữ Khẩu ở Đông Bản Kiều, chấm dứt lịch sử đồng chí ở chiêu đãi sở sau khi về nước và ở nhà tập thể thời gian dài với phu nhân, Hứa Kỳ Thanh, công tác ở Ban Tổ chức Trung ương. Vi Quốc Thanh tuy làm việc ở Bộ Tư lệnh Lực lượng Công an, nhưng vẫn quan tâm theo dõi sự phát triển của tình hình chiến sự Việt Nam. Các bức điện quan trọng qua lại giữa Quân uỷ Trung ương và Ðoàn cố vấn, Cục Cơ Yếu Bộ Tổng Tham Mưu theo chỉ thị của Quân uỷ Trung ương đều sao chuyển cho đồng chí xem.

Thu đông năm 1951, tình hình chiến tranh Triều Tiên tương đối ổn định. Mao Trạch Ðông càng quan tâm theo dõi với tình hình chiến sự Ðông Dương hơn. Tầm mắt của Mao Chủ tịch không chỉ chú ý theo dõi chiến trường Bắc Bộ Việt Nam, mà còn chú ý theo dõi chiến trường Trung Bộ, Nam Bộ, chú ý theo dõi Lào và Campuchia. Không chỉ chú ý theo dõi chiều hướng của quân Pháp, mà còn quan tâm đến hoạt động của Mỹ đặt chân vào Ðông Dương. Trong đầu Mao Chủ tịch dần dần hiện lên rõ nét một ý tưởng chiến lược: trước hết mở chiến trường Tây Bắc, giành lấy vùng Tây Bắc và Thượng Lào. Sau đó phát triển xuống Trung Nam Bộ, phát triển sang Trung Hạ Lào và Campuchia. Tấn công trước vào vùng binh lực địch mỏng yếu, để từng bước làm cho mình lớn mạnh lên, làm cho địch suy yếu, tạo điều kiện, cuối cùng đánh lấy đồng bằng sông Hồng, giành thắng lợi trong chiến tranh chống Pháp. Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là đánh lấy vùng Tây Bắc và Thượng Lào. Phải đề xuất kiến nghị này với Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam. Cử ai đi bây giờ ? Sau khi Mao Trạch Ðông bàn với Lưu Thiếu Kỳ, quyết định giao nhiệm vụ này cho La Quý Ba hoàn thành, và giao La Quý Ba kiêm luôn quản lý công tác của Ðoàn cố vấn.
Ðồng chí La Quý Ba tham gia cách mạng năm 1925, trải qua cuộc đấu tranh ở Tỉnh Cương Sơn và cuộc Trường chinh hai vạn năm nghìn dặm, từng giữ chức Tư lệnh kiêm Chính uỷ quân khu Tấn Trung (miền Trung Sơn Ðông), Chính uỷ Quân đoàn 7 v.v… Tháng 3/1950 sang Việt Nam làm đại diện liên lạc của Trung ương Ðảng Cộng sản Trung Quốc. Ít lâu sau sang làm Trưởng đoàn cố vấn chính trị của Trung Quốc tại Việt Nam, phụ trách giúp công tác đảng của Việt Nam. Sau khi về nước nghỉ ngơi không lâu, đầu năm 1952 La Quý Ba lại nhận mệnh lệnh của Trung ương, sang Việt Nam. Vùng Tây Bắc Việt Nam giáp tỉnh Vân Nam – Trung Quốc có giá trị chiến lược rất quan trọng, nó là vùng xung yếu chiến lược của quân Pháp án ngữ Thượng Lào kiềm chế vùng giải phóng Việt Bắc, yểm hộ đồng bằng sông Hồng. Ðánh lấy vùng Tây Bắc có thể nối liền thành một dải với vùng giải phóng Việt Bắc, hình thành hậu phương vững chắc, bắc dựa Trung Quốc, nam tiếp giáp Thượng Lào, một vùng rộng lớn, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc tạo điều kiện giành lấy đồng bằng sông Hồng và thúc đẩy toàn quốc kháng chiến thắng lợi. Còn quân Pháp ở vùng Tây Bắc chỉ có binh lực của 8 tiểu đoàn và 41 đại đội, phân tán chốt giữ 144 cứ điểm, dù là phân bố binh lực hay cấu trúc công sự đều mỏng yếu hơn nhiều so với vùng đồng bằng sông Hồng. Ðó là điều kiện có lợi cho Quân đội Nhân dân tiến quân lên đánh Tây Bắc. Tuy nhiên, vùng Tây Bắc sông sâu núi cao, dân cư thưa thớt, là vùng tập trung dân tộc thiểu số, cơ sở quần chúng yếu, kinh tế nghèo nàn, giao thông bất tiện. Ðó là điều kiện bất lợi. Lúc đó rất nhiều cán bộ cao cấp trong quân đội nhân dân Việt Nam chỉ nhìn thấy mặt bất lợi, mà không nhìn thấy giá trị chiến lược quan trọng của vùng này, nên không muốn lên Tây Bắc tác chiến.

Sau khi La Quý Ba đến Việt Nam, chuyển tới chủ tịch Hồ Chí Minh sự phân tích và kiến nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với phương hướng tác chiến từ nay về sau, Hồ Chí Minh tiếp nhận kiến nghị đó. Hội nghị toàn thể lần thứ 3 Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp trong tháng 4, ra quyết định chuyển hướng chủ công của bộ đội chủ lực lên vùng núi Tây Bắc.
Sau đó, Ðoàn cố vấn quân sự và phía Việt Nam nghiên cứu nhiều lần phương án tác chiến của chiến dịch Tây Bắc và từ tháng 4 đến tháng 7, ba lần điện thỉnh thị Quân uỷ Trung ương Trung Quốc; Quân uỷ Trung ương đã chỉ thị tỉ mỉ vấn đề mục tiêu, chiến thuật và thời gian tác chiến tại Tây Bắc. Cuối cùng phương án tác chiến của phía Việt Nam xác định là sử dụng hai đại đoàn 308, 312 và hai trung đoàn của đại đoàn 316 tất cả binh lực 8 trung đoàn, mở tấn công địch vào trung tuần tháng 10. Tác chiến đợt 1 giải phóng vùng Nghĩa Lộ và Quang Huy, tác chiến đợt 2 giải phóng vùng Sơn La và Mộc Châu.
Hạ tuần tháng 9, Hồ Chí Minh bí mật thăm Trung Quốc, sau đó nhận lời mời sang Liên Xô dự Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 19 Ðảng Cộng sản Liên Xô. Trong thời gian ở Bắc Kinh, Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Bành Đức Hoài trực tiếp đưa ra với Hồ Chí Minh kiến nghị về chiến lược chung của chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, tức trước tiên đánh lấy vùng Tây Bắc, tiến tới tiến sang Thượng Lào, để xây dựng hậu phương chiến lược rộng lớn. Có hậu phương chiến lược này thì có thể ở vị thế chủ động. Sau đó sẽ phát triển sang những vùng binh lực địch mỏng yếu Trung Hạ Lào, Campuchia và Trung Nam Bộ Việt Nam, cuối cùng đánh lấy đồng bằng sông Hồng, giành toàn thắng chiến tranh chống Pháp. Hồ Chí Minh bày tỏ hoàn toàn tán thành kiến nghị này. Các vị lãnh đạo lại thảo luận thêm vấn đề tác chiến vùng Tây Bắc và đi đến ý kiến nhất trí.

Hồ Chí Minh nêu ra với Mao Trạch Đông, chiến dịch Tây Bắc sắp bắt đầu vô cùng quan trọng, tốt nhất mời Vi Quốc Thanh sang lại Việt Nam giúp đánh tốt trận này. Mao Trạch Ðông đồng ý yêu cầu của Hồ Chí Minh. Ngày 30/9, Hồ Chí Minh gửi điện cho La Quý Ba nói, đồng chí đã bàn với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, trọng điểm của chiến dịch Tây Bắc là tấn công Nghĩa Lộ. Sau khi đánh lấy Nghĩa Lộ, lập tức phát triển ra vùng xung quanh, thành lập căn cứ địa cách mạng, xây dựng đường ôtô Yên Bái đi Nghĩa Lộ. Tác chiến đợt hai không tấn công Sơn La nữa. Hồ Chí Minh còn báo cho La Quý Ba biết, Vi Quốc Thanh sẽ nhanh chóng từ Bắc Kinh đi Việt Nam.
Ngày 1/10 năm ấy là ngày quốc khánh thứ 3 của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trên quảng trường Thiên An Môn đêm hôm đó, hàng vạn quần chúng hân hoan vui mừng, ca hát nhảy múa. Vào lúc màn đêm buông xuống, Mao đến thành lầu Thiên An Môn ngồi chính giữa, cùng các trợ thủ chủ yếu của người xem pháo hoa. Lúc đó Vi Quốc Thanh đã được bổ nhiệm làm Phó tư lệnh lực lượng công an, cũng bước lên Thiên An Môn. Ðồng chí nhìn thấy Mao Trạch Ðông và Hồ Chí Minh đang mỉm cười ngồi bên cạnh. Từ trên thành lầu, Vi Quốc Thanh một lần nữa nhận mệnh lệnh sang Việt Nam chấp hành sứ mệnh quân sư.
Bộ Chính trị Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam, sau khi nhận điện của Hồ Chí Minh họp lại một lần nữa thảo luận kế hoạch chiến địa Tây Bắc. Hội nghị quyết định hủy bỏ kế hoạch tác chiến đợt hai đã bàn định trước đấy, theo điện chỉ thị của Hồ Chí Minh tập trung tấn công Nghĩa Lộ. Võ Nguyên Giáp không dự hội nghị này vì đang dẫn Bộ chỉ huy tiền tuyến chiến dịch tiến lên Nghĩa Lộ. Sau khi nhận được điện báo của Trường Chinh thông báo tình hình cho đồng chí sau hội nghị, Võ Nguyên Giáp tỏ ra không đồng ý thay đổi kế hoạch tác chiến đợt 2. Trường Chinh quyết định chờ Vi Quốc Thanh sau khi đến sẽ định đoạt lại.

Vi Quốc Thanh ở Bắc Kinh được nghe chỉ thị trực tiếp của Mao Trạch Ðông, Bành Ðức Hoài và sau khi trao đổi với Hồ Chí Minh, ngày 16/10 đến căn cứ địa Việt Bắc. Ngay hôm đến Việt Bắc, lập tức chuyển đến lãnh đạo Việt Nam ý kiến của Hồ Chí Minh đã trao đổi với Mao Trạch Ðông, Bành Ðức Hoài về chiến dịch Tây Bắc Việt Nam. Ngày 18/10, Bộ Chính trị Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam họp thảo luận lại La Quý Ba và Vi Quốc Thanh cũng tham gia hội nghị này. Hội nghị quyết định sau đợt một chiến dịch Tây Bắc, xem tình hình lúc bấy giờ hãy quyết định có tiến hành đánh đợt 2 hay không.
Sau hội nghị, ngày 24/10, Vi Quốc Thanh ra tiền tuyến Nghĩa Lộ. Lúc này Mai Gia Sinh đã dẫn nhân viên Ban chỉ huy Ðoàn cố vấn ở tiền tuyến Tây Bắc giúp phía Việt Nam tổ chức chỉ huy tác chiến đợt 1 chiến dịch.
Chiến dịch Tây Bắc đã được sắp đặt và chuẩn bị thời gian dài bắt đầu nổ súng ngày 14/10/1952. Ðêm hôm đó, trung đoàn 174 đại đoàn 316 tiêu diệt luôn quân địch ở cứ điểm Ca Vịnh, trung đoàn 141 đại đoàn 312 tấn công cứ điểm Sài Lương. Ðại đoàn 308 sau khi bao vây sở chỉ huy phân khu của địch ở Nghĩa Lộ đêm 17 trước tiên tiêu diệt địch ở cứ điểm ngoại vi Bố Trương, tiếp đó sau khi chuẩn bị hỏa pháo, đã tấn công Nghĩa Lộ, cuộc chiến đấu quyết liệt đến hửng sáng hôm sau, tiêu diệt toàn bộ hơn 700 tên địch đóng ở Nghĩa Lộ.
Khói đạn chiến đấu ở Nghĩa Lộ chưa tan, Vu Bộ Huyết, cố vấn quân sự của đại đoàn 308 lập tức dẫn cảnh vệ Lỗ Hiển Dư đi xem trận địa. Khi họ đến bên cạnh trận địa quân Pháp bên gò núi, chú Lỗ liếc mắt nhìn thấy lá cờ của quân Pháp trên trận địa vẫn bay ở đây bèn hô lên một tiếng: “Tôi đi nhổ lá cờ đó ”, một mình chạy tới lá cờ của quân Pháp. Vu Bộ Huyết vội hét lên: “Chú Lỗ quay về ”, nói chưa dứt lời, một tiếng nổ vang lên, một quả mìn nổ tung chàng trai Lỗ Hiển Dư người Sơn Ðông, vừa tròn 20 tuổi ngã xuống, một dòng máu nóng chảy trên mảnh đất Việt Nam.
Cùng lúc với đại đoàn 308 thắng lợi ở Nghĩa Lộ, đại đoàn 312 đang tiến lên tấn công vào sâu phía bắc bờ tây sông Hồng, trên đường quét sạch cứ điểm quân Pháp, đánh tan quân địch phục kích ở Nam Mai và tiếp tục buộc địch rút khỏi điểm Tú Lệ, Gia Hội, v.v.. Trung đoàn độc lập 148 từ Lào Cai tiến xuống phía nam, giải phóng Quỳnh Nhai ở bờ đông sông Ðà, và hợp lại với đại đoàn 312. Các đại đoàn 308 và 316 sau khi đánh thắng trận đầu tiếp tục tiến quân tấn công Phù Yên, Vạn An, v.v.. cho ngựa uống nước sông tại sông Ðà.
Ghi chú của Trần Vũ
Lực lượng Việt Minh tham gia chiến dịch Tây Bắc gồm các sư đoàn 308, 312 và 316 (thiếu), tiểu đoàn 910 (Trung đoàn 148), 6 đại đội sơn pháo 75 ly, 3 đại đội súng cối nặng 120mm, 1 trung đoàn công binh và 11 đại đội bộ đội địa phương, tổng quân số lên tới 36,000 người. Phía Pháp trước khi hình thành căn cứ Nà Sản, có Tiểu đoàn 1 Thái, Tiểu đoàn 17 Tabors Sơn Cước Marốc, Tiểu đoàn 56 Khinh Quân Việt Nam, tăng cường Tiểu đoàn 6 Nhảy dù Thuộc địa.




(Còn tiếp)
Vu Hoá Thầm
bản dịch của DƯƠNG DANH DY
(đăng trong Thượng tướng phong vân lục nxb Đại Bách Khoa toàn thư năm 2000)