Trưa ngày 16 tháng 9, 1889 cả trăm ngàn người đã sắp hàng ngang trên lưng ngựa, wagon, xe đạp và cả chân trần. Khi tiếng còi và súng lệnh cất lên thì tất cả lao về phía cuối chân trời để giành đất. Bụi mịt mù, vó ngựa hối hả, tiếng roi quất ngựa, tiếng bánh xe lăn, âm thanh náo nhiệt hỗn độn vì tương lai nằm trong tầm tay họ.
Họ cầm một lá cờ, miếng đất đã được quy hoạch và đo đạc trước có cắm cột mang số lô. Ai đến trước sẽ được lô đất tốt ở phố hay với mạch nước, đồi cao, đất bằng. Ai đến sau chỉ còn miếng đất thô sỏi đá… Chính quyền chỉ có 7 tuần để chuẩn bị. Tuy vậy tin tức được thông báo khắp nơi, lan tới tận Châu Âu. Gần đến ngày ấn định đã có hơn 50 ngàn lều dựng quanh bốn phía của lãnh thổ. Ðã có nhiều người lén vào khu đất hoang đêm hôm trước, ẩn núp trong các mương rãnh, chờ tiếng còi phát hiệu là đóng cọc giành chỗ. Những người giành đất bất hợp lệ này được gọi là sooner (người đến sớm.) Họ là những viên chức cảnh sát, chuyên viên đo đạc, làm cho đường sắt và vài người bỏ tiền mua tin tức. Ðến cuối ngày hôm ấy thì 2 thành phố Oklahoma City và Guthrie trong chớp nhoáng nửa ngày đã có đến 10 ngàn người. Ðường phố được phân bố, nhà ở và công sở được phân chia. Và hội đồng thành phố được bầu ra. Người định cư lập tức đào móng, lót ván. Nhiều người đứng xếp hàng làm thủ tục giấy tờ chủ quyền. Trẻ em múc nước suối bán cho người xếp hàng trong nóng nực và bụi bặm 5 xu một cốc. Nhiều trẻ khác gom phân bò buffalo làm củi đốt nấu ăn. Ðến tuần thứ nhì thì trường học được xây, thầy cô giáo làm tự nguyện được trả thù lao từ các bậc cha mẹ, trong khi chờ thành phố chi trả và hình thành học khu. Tháng sau thì Thành phố Oklahoma có 5 nhà băng và 6 tờ báo. Năm 1908 trường đại học Oklahoma lấy tên Sooner cho đội bóng bầu dục của mình. Không lâu sau đó Oklahoma được gọi là The Sooner State.

Ðã có 7 lần người Mỹ được giành đất miễn phí trong tiểu bang Oklahoma. Vùng đất nằm ở trung tâm của tiểu bang thuộc các bộ tộc da đỏ. Trước đó các nhà thám hiểm da trắng thấy vùng đất quá khô cằn, không lý tưởng cho định cư, dành nơi để quy tụ người da đỏ năm 1817. Vào cuối thế kỷ 19, kỹ nghệ nông nghiệp phát triển và nội chiến kết thúc, người Mỹ cần đất hơn bao giờ hết. Vì thế năm 1889 Tổng thống Benjamin Harrison cho phép 2 triệu mẫu đất hoang được đua giành vì chưa phân bố cho bộ tộc nào.
Ðó là bức tranh về sở hữu đất đai ở Oklahoma. Trên toàn nước Mỹ thì bắt đầu sau khi Abraham Lincoln ký Ðạo luật đất ngụ cư 1862. Hơn 270 triệu mẫu đất công, gần 10% diện tích nước Mỹ được chia cho 1.6 triệu gia đình, phần lớn là người ở phía Tây sông Mississippi. Năm 1852, một nhóm các chính khách cùng Ðảng Cộng Hòa trước nội chiến đã đề nghị vận động cho sở hữu đất đai miễn phí. Phe miền Nam vì lợi ích dùng nô lệ muốn sử dụng các miền đất lớn cho nông trại. Phe miền Bắc lại chống việc nô lệ và muốn tư hữu hóa đất đai cho mọi cá nhân. Năm 1854 đạo luật sở hữu đất đai đầu tiên được đề nghị nhưng gặp phải chống đối trong quốc hội. Mỗi người muốn định cư trên vùng đất mới phải trả 25 xu cho 1 mẫu. Luật được Quốc hội chấp thuận năm 1860, tuy vậy Tổng Thống Buchanan lại phủ quyết. Mãi đến thời Abraham Lincoln đạo luật mới thực thi. Tất cả mọi cư dân được hưởng chính sách này, từ di dân đến phụ nữ độc thân, từ nô lệ được trả tự do đến nông dân không có đất. Với đạo luật này, bất kỳ nam nữ 21 tuổi hay chủ gia đình có thể sở hữu 160 mẫu đất hoang bằng cách sống ở đó 5 năm với 18 đô lệ phí. Họ buộc phải xây nhà và cải thiện miếng đất, trồng trọt… Hoặc bằng cách khác như mua 1.25 đô/mẫu sau khi sống trên mảnh đất đó 6 tháng. Họ phải đăng bạ ở văn phòng điền địa, sau khi miếng đất được điều tra chủ quyền, đóng lệ phí 10 đô tạm thời sử dụng đất và 2 đô cho dịch vụ, hai người láng giềng làm chứng. Sau khi hoàn tất thủ tục họ sẽ được cấp giấy chủ quyền có chữ ký của Tổng thống. Giấy cấp được hãnh diện treo trên tường như kết quả của quyết tâm và sự cố gắng làm việc. Người đầu tiên mua đất dựa theo đạo luật Homestead là Daniel Freeman cho 1 nông trại ở Nebraska vào 1 tháng 1, 1863. Ông và vợ sống ở đó cho tới già và chết năm 1931. Trang trại được đưa vào danh sách bảo tàng quốc gia.

Ðến năm 1866 thì đạo luật thay đổi và điều chỉnh theo từng vùng và từng thời gian, với nhiều lý do xung đột trong 2 đảng Dân Chủ và Cộng Hòa, miền Bắc và miền Nam, bảo thủ và cấp tiến, cùng các lo sợ đạo luật sẽ thu hút nguồn di dân từ Châu Âu và người nghèo từ phía Ðông, cũng như các biến chuyển trong xã hội khi đến khai thác vùng đất mới. Ðạo luật đất ngụ cư ở phía Nam 1866 giúp các nông dân và người nghèo như kế hoạch “người cày có ruộng”, họ sẽ có thu nhập và dần sở hữu trên mảnh đất làm thuê bằng sức lao động của mình. Ðây là thời gian sau nội chiến nhằm tái thiết nước Mỹ. Và chương trình này không thành công vì lợi tức thấp và lệ phí cao. Tiếp đó là Ðạo luật trồng cây rừng năm 1873, người dân sẽ có 160-320 mẫu đất nếu trồng 1/4 cây rừng trên vùng đất, đó là đất Tây Nebraska sau này.
Vào cuối thế kỷ 19 thì các vùng đất chính màu mỡ dọc các sông suối đã bị chiếm hữu, trong khi hơn 570 triệu mẫu đất hoang khô cằn còn rộng mở. Nhưng rất ít trong số đó phù hợp cho nông nghiệp. Khi miền đất bằng phẳng của trung Mỹ gọi là Great Plains được khai phá thì số dân định cư gia tăng hơn khi chính phủ cho trên 320 mẫu. Làn sóng di dân đổ xô đến canh tác trồng trọt với các phương pháp không phù hợp, phơi trần lớp đất bề mặt dẫn đến hậu quả tai hại cho các cơn bão bụi sau này. Ở Wyoming, Montana và Colorado đất đai được chia thành mảng lớn rộng hàng trăm mẫu, nơi miếng đất lý tưởng cho các trang trại của cao-bồi. Những miền đất rộng này bao gồm các sông suối, giếng nước ngầm. Ðiều này dẫn đến các mâu thuẫn tranh giành khốc liệt giữa các điền chủ, có khi kết thúc bằng chết chóc hận thù gia đình.

Ðiều oái oăm là Ðạo luật đất ngụ cư bị lợi dụng để đánh lừa nhiều người. Những miếng đất khô cằn, sỏi đá và bạc màu không phù hợp cho trồng trọt, nơi thường xuyên hạn hán nhiều năm, nhiều cư dân đã phải bỏ đất mà đi sau vài năm không trồng trọt được gì. Trong khi ấy đạo luật buộc cư dân phải ở trên miếng đất đó 5 năm mới được làm chủ. Một vài đại công ty đã lợi dụng đạo luật để làm giàu. Họ đã trả thật cao cho cư dân để mua lại các miếng đất có giá trị, nơi có rừng gỗ, khoáng sản, nguồn nước và dầu mỏ. Sau đó họ khai là đã cải thiện đất, trong khi thật sự họ đã khai thác và tàn phá nhiều hơn. Vì lẽ đó Ðạo luật được sửa đổi năm 1912, áp dụng cho dân định cư chỉ ở trên đó 3 năm thay vì 5 năm như trước đây. Tuy vậy đến thời điểm này phần lớn các vùng đất của 48 tiểu bang đã được mua hết. Các di dân sở hữu đất dần chấm dứt vào năm 1976. Ngoại trừ Alaska vẫn còn áp dụng cho đến năm 1986.
Ðạo luật đất ngụ cư 1862 đã giúp cho người dân Mỹ có nhà cửa và đã góp phần tạo nên nước Mỹ giàu có thịnh vượng ngày nay. Ðất nước sẽ không hiện hữu nếu không có người dân. Nước Mỹ, nơi đất lành chim đậu. Như câu chuyện giành đất năm 1889 ở Oklahoma, được Tom Cruise và Nicole Kidman đóng rất hay trong phim Far & Away năm 1992, trong đó đôi tình nhân từ Ireland đến Mỹ định cư. Cũng như bạn và tôi, những cánh chim phi xứ, đậu trên mảnh đất lành.

SB