Tìm hiểu chiến tranh, là tìm hiểu phía thất trận. Vì phía chiến thắng thường xuyên rơi vào tuyên truyền với huênh hoang và khoe khoang. Ngược lại ở những người lính đã rả ngũ, đã mất hết, không còn gì khác ngoài sự thật phải viết ra. “Ngày Ta Bỏ Núi” và “Tháng Tư Lại Về” của Thiếu tá Vương Mộng Long, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đã lui binh từ Quảng Đức về Long Khánh, là một hồi ký không hoa mỹ nhưng mang đầy tình đồng đội với tâm tình của những người lính bình thường.
Trung học Trần Quý Cáp Hội An, khóa 20 Võ bị Đà Lạt và rồi là những chiến trường nặng độ Pleime, Chu Pao, Dakto… Vương Mộng Long thăng trầm theo các trận đánh cùng lúc mang hình ảnh của những sĩ quan miền Nam thế hệ sau. Thế hệ dày dạn trận mạc khác hẳn với những viên tướng thăng cấp nhờ đảo chánh. Thế hệ gần gũi với dân vì cùng chia sẻ tai ương của cuộc chiến. Thế hệ hiểu, phải bảo vệ dân bằng chính sinh mạng mình. Chính là vì sao Quân đội Quốc gia tuy đã chết, vẫn còn được tri ân và tiếc thương.
13 năm tù đày từ Nam ra Bắc không ngăn Vương Mộng Long tốt nghiệp B.A Social Science and Communication tại đại học Washington. Chính ý chí luôn luôn cố gắng phi thường này đã giúp ông đem được đơn vị từ Kiến Đức về Di Linh, xuyên qua cao nguyên Bảo Lộc bằng đường rừng để tiếp tục chiến đấu. Tại mặt trận Xuân Lộc cuối tháng 4, cũng chính Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đã bắn cháy nhiều chiến xa T-54 Bắc Việt. Nam Việt bại trận nhưng cá nhân Thiếu tá Vương Mộng Long chưa hề thất trận.

Tôi không biết Thiếu tá Long sang Hoa Kỳ sinh sống nơi đâu, địa chỉ nào, nhưng tôi vẫn muốn giới thiệu một lần nữa những trang hồi ký của ông. Trần Vũ
Ngày ta bỏ núi (kỳ 1)
Vương Mộng Long
Giữa tháng 2 năm 1975, tôi lái xe từ đồn Kiến-Ðức, Quảng-Ðức lên thăm Ðại tá Biệt Ðộng Quân Phạm Duy Tất tại căn cứ Non-Nước, khoảng 10 cây số bắc Kontum. Ðêm đó hai thầy trò tôi nằm bên nhau, hàn huyên tới khuya. Tôi được Ðại tá Tất cho đọc bản cung từ của một hồi chánh viên. Bản cung từ này do Ðại úy Dũng của Trung-tâm Thẩm Vấn, Quân đoàn 2 thiết lập. Người hồi chánh là một Thượng sĩ trưởng mũi thám sát của Trung đoàn 48, Sư đoàn 320 CSBV. Anh ta khai rằng, hai tháng nữa sẽ có một cuộc tấn công đại quy mô của Cộng Quân nhằm giải phóng thị xã Ban Mê Thuột. Anh ta còn kê khai ra những tổn thất của Sư đoàn 320 CSBV trong trận đánh 34 ngày đêm vây hãm Plei Me tháng 7& 8 năm 1974. Trận này Trung đoàn 48/SÐ 320 chủ công đã bị thiệt hại rất nặng, mỗi đại đội chỉ còn khoảng 17, 18 cán binh. Ðơn vị đó phải về hậu cứ gần biên giới Việt Miên để bổ sung quân số rồi chuyển vùng hoạt động. Ðêm đó tôi có nói với Ðại tá Tất rằng:
“Thằng 48 đã bị tôi đánh xiểng liểng hai lần. Kỳ này Tư Lệnh cho tôi về phòng thủ Ban-Mê-Thuột, tôi sẽ có dịp ‘cưa’ với nó một lần nữa. Ðại tá yên chí! Nếu tôi chưa chết thì Ban-Mê-Thuột chưa lung lay. Tôi cam đoan với Ðại tá như vậy!”
Tôi thực lòng mong muốn được về giữ thành phố này. Vì cha mẹ, vợ con, anh em tôi, và gia đình binh sĩ đơn vị tôi sinh sống trong thành phố này. Ông Tất cười cười trả lời,
“Cậu đừng lo! Ông Phú (Tư Lệnh QÐ2) đã giao cho ông Tường (Tư Lệnh SÐ23/BB) lo vụ này rồi!”
Tôi cũng được ông Tất cho biết rằng Sư đoàn 23/ BB sẽ án ngữ tại Buôn Blech, có thể dễ dàng di động giữa Ban-Mê-Thuột và Pleiku. Tiếp đó Ðại tá Tư Lệnh “bật mí” cho tôi một tin vui: Vài tháng nữa TÐ82/BÐQ của tôi sẽ được tăng cường để có quân số trên 800 người, với một hệ thống ngang 16 máy truyền tin, gồm đủ Trinh-Sát, Viễn-Thám cùng một đại đội chỉ huy và bốn đại đội tác chiến. Tiểu đoàn tôi sẽ ra khỏi Liên đoàn 24 BÐQ để làm lực lượng xung kích dưới quyền Tư Lệnh Mặt Trận Kontum.

Hôm sau, trước khi từ giã Ðại tá Tất, tôi có đi quanh một vòng thăm Trung tá Lê Tất Biên, Liên đoàn trưởng LÐ 23 BÐQ và vài người bạn đang tham gia phòng thủ vùng Bắc-Kontum. Thiếu tá Thi, Liên đoàn phó LÐ 23 BÐQ hướng dẫn tôi đi quan sát vị trí bố quân của Liên đoàn. Tôi thấy mặt trận ở đây có vẻ còn yên tĩnh hơn vùng Ngã Ba Tam Biên Nam (Cao Miên, Nam Kỳ, Trung Kỳ) mà tôi đang trấn giữ. Trên đường về Quảng-Ðức, tôi ghé Ban-Mê-Thuột thăm hậu cứ tiểu đoàn, rồi về nhà nghỉ với vợ con tôi một đêm. Buổi sáng ngày kế đó, tôi vào tiệm Phở Tây-Hiên, ăn điểm tâm trước khi lên đường. Lúc tôi sắp lên xe thì người lính già Dương Ðức Mai (cựu Trung tá Liên đoàn trưởng LÐ22 BÐQ, mới giải ngũ) xuất hiện giữa phố, giơ tay vẫy:
“Chào người hùng Plei-Me. Ghé tệ xá cho tôi hỏi thăm đôi lời đi ông Quan Tư!”
Tôi và bác Mai là chỗ rất thân tình. Chúng tôi đã nhiều năm làm việc chung ở BCH BÐQ QK2. Tôi theo chân bác, vào thăm nhà bác. Nhà bác ở kế hàng rào sân vận độngBan-Mê-Thuột. Vào tới sân, Trung tá Dương Ðức Mai, thật nghiêm nghị, hỏi tôi,
“Theo ý cậu, tụi VC có dám đánh Ban-Mê-Thuột hay không?”
Vừa nâng niu những giò lan rực rỡ trên giàn, tôi vừa hùng hồn cam đoan với người chỉ huy cũ:
“Bác cứ yên chí lớn! Ông Tường sẽ bảo vệ Ban-Mê-Thuột, ông Tất nói vậy, bác đừng lo!”
“Thế ông gia, bà gia và vợ con cậu không di chuyển đi đâu sao?” Bác Mai nhìn tôi, dọ dẫm.
“Có thể địch sẽ tấn công, nhưng chắc chúng không làm nên sự việc gì đâu. Gia đình tôi còn ở đây, đủ hết, cha mẹ, anh em, vợ con tôi, vợ con binh sĩ tiểu đoàn tôi.” Tôi cầm tay bác, trấn an bác.
Tới đây thì bác Mai có vẻ yên tâm. Tối trước, khi thấy bố vợ tôi âu lo vì những tin đồn địch sẽ tấn công, tôi nói với ông cụ rằng, một cặp chỉ huy dày dạn chiến trường Tường và Luật đủ bảo đảm cho sự đứng vững của thành phố nhỏ bé này rồi (Chuẩn Tướng Lê Trung Tường Tư Lệnh/SÐ 23 BB & Ðại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng Darlac). Nghe tôi mạnh miệng, bố vợ tôi mới hết lo lắng. Bố vợ tôi cũng là một cựu Trung tá của Sư đoàn 23 Bộ Binh vừa giải ngũ được một năm. Ông cụ và bác Dương Ðức Mai là bạn khá thân. Sau khi chuyện trò một lúc, tôi bắt tay từ giã người cựu Liên đoàn trưởng Biệt Ðộng Quân Dương Ðức Mai, rồi lên đường.

Vài ngày sau, ở Kiến Ðức, tôi chợt nhớ ra rằng, bản cung hồi chánh đã cũ, và nếu đúng theo diễn tiến mà anh Thượng sĩ của Trung đoàn 48/SÐ 320/ Ðiện-Biên đã khai, thì giữa tháng Ba tới, địch sẽ khai triển chiến dịch tấn công Ban Mê Thuột. Tôi lại nghe tin A2 phổ biến từ Phòng Nhì, Quân đoàn 2 thông báo những chỉ dấu chuyển quân của Việt Cộng từ biên giới Việt Miên về vùng ven căn cứ biên phòng Bản-Don. Mối quan tâm của tôi là, gia đình tôi và gia đình binh sĩ Tiểu đoàn 82 BÐQ đều ở Ban-Mê-Thuột. Tôi vội thảo gấp một cái công điện gởi thẳng cho hai nơi, một cho Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Biệt Ðộng Quân Quân-khu 2 đang ở Kontum, một cho Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 2 ở Pleiku. Tôi xin thượng cấp cho phép Tiểu đoàn 82 BÐQ được rời Kiến-Ðức, Quảng-Ðức để về phòng thủ Ban-Mê-Thuột. Tôi biết rất rõ về Trung đoàn 48 SÐ 320 CSBV, đơn vị chủ công sẽ đánh Ban Mê Thuột. Tôi tin tưởng rằng đơn vị tôi đủ sức đương đầu với chúng. Trong quá khứ, đơn vị tôi đã hai lần chạm trán với trung đoàn CSBV này ở căn cứ 711 Pleiku (tháng Tư, 1974) và ở căn cứ biên phòng Plei-Me (tháng 7 & 8, năm 1974). Vì đây là điện văn riêng, nên tôi không gởi theo hệ thống dọc qua bộ chỉ huy Liên đoàn 24 BÐQ và qua bộ chỉ huy Tiểu khu Quảng Ðức mà chúng tôi đang tăng phái. Nhưng Trung tá Hoàng Kim Thanh, Liên đoàn trưởng LÐ 24 BÐQ rõ chuyện này, vì tôi có tâm sự với ông, ông rất thông cảm hoàn cảnh của tôi. Tôi chờ đợi từng ngày. Không ai trả lời bức điện thỉnh cầu của tôi.
Những khi hành quân xa, tôi thường đặt đài tiếp vận để tiện liên lạc với hậu cứ. Những tiểu đoàn bạn, đôi khi cả bộ chỉ huy liên đoàn cũng vào tần số đài này nhờ chuyển tin. Sáng ngày 9/3/75 đài tiếp vận “Tam Quái 82” của tôi đặt trên căn cứ hoả lực Núi Lửa, Ðức-Lập báo cáo rằng địch đang pháo kích vào chi khu Ðức-Lập. Tới gần trưa thì chính căn cứ Núi Lửa cũng bị địch pháo kích và tấn công bằng bộ binh. Xế chiều, tôi nghe anh Binh nhì Trưởng toán tiếp vận báo cáo bằng bạch văn lời cuối:
“Thiếu Tá ơi! Tam Quái chắc tiêu ma đợt này rồi Thiếu Tá ơi!”
Sau đó tôi không còn nghe được gì nữa. Tôi thường gọi mấy anh Biệt Ðộng Quân của Tiểu đoàn 82 giữ máy tiếp vận trên đỉnh Núi Lửa là “Tam Quái”. Chỉ vì toán này gồm ba anh lính có tật, một anh cà thọt, một anh điếc, và một anh thong manh. Anh điếc nấu cơm, hai anh kia trực máy truyền tin. Những năm sau này, quân số thiếu hụt, những người có tật cũng bị bắt đi quân dịch, mà Biệt Ðộng Quân lại thiếu người, nên rất dễ dãi vấn đề tuyển quân. Biệt Ðộng Quân nhận tất cả quân nhân bổ sung từ bất cứ nguồn nhân lực nào. Chúng tôi được bổ sung quân số từ Trung Tâm 3 Tuyển Mộ & Nhập Ngũ chuyển qua BCH BÐQ QLVNCH, TTHLBÐQ Dục Mỹ, TTHL Lam Sơn, Ðơn Vị 2 Quản Trị Ðịa Phương, Quân Lao, kể cả Lao Công Phục Hồi. Tôi không chê bất cứ ai trình sự vụ lệnh về phục vụ đơn vị mình. Thong manh, cà thọt, mẻ sứt, kể cả ma túy, sì-ke tôi nhận tuốt. Những quái nhân này ở tiểu đoàn tôi chỉ ít lâu sau đã thành những con người mới. Người nào có việc nấy, tôi cứ áp dụng lời khuyên của người chỉ huy cũ, Trung tá Bùi Văn Sâm:
“Viên đạn nào cũng bắn vào đầu địch. Chỉ cần người lính chịu bóp cò là được rồi. Xấu trai mà dám bóp cò, còn hơn đẹp trai mà ra trận chưa nghe súng nổ, mắt đã láo liên. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn!”
Vì thế mà quân số tiểu đoàn tôi lúc nào cũng đông hơn tiểu đoàn khác. Lính cà thọt không chạy nhanh được, cho họ làm tiền đồn. Cà thọt đóng chốt thì khỏi lo mất chốt. Lính thong manh, không canh gác được thì cho trực truyền tin, nấu cơm. Lính điếc thì cho tải đạn cối 81 ly, cối 60 ly, SKZ 57 ly. Lính điếc mà bắn cối hay SKZ thì nhất! Ðiếc đâu cần bịt lỗ tai! Sì-ke nghiện ngập cũng dễ chữa thôi! Tôi lúc nào cũng dùng lời khuyến dụ êm ngọt trước, dùng võ lực sau. Anh nào không nghe lời nhỏ nhẹ bỏ nghề chích choác thì tôi mời vào conex nằm chơi. Ngày này qua ngày khác, chỉ có món nước đường do Thiếu úy Hoàng, Ðại đội trưởng đại đội công vụ tiếp tế. Những ngày đầu thiếu thuốc, dân choác khổ sở, vật vã vô cùng. Dăm ba ngày sau quen dần, quen dần. Người nghiện nặng cách mấy cũng chỉ một tuần là phải từ giã ống chích, kim tiêm, khỏi bịnh! Theo lời dạy của cổ nhân, “Dụng nhân như dụng mộc”, tôi sắp xếp người của tôi vào công việc phù hợp với họ; trên dưới đề huề, thương nhau. Những năm sau cùng, không khí sinh hoạt trong đơn vị tôi (Tiểu đoàn 82 BÐQ) là thế đấy! Tin Tam Quái trên Núi Lửa bị mất liên lạc làm cả ban tham mưu tiểu đoàn buồn rầu.
Sáng 10/3/75, bộ chỉ huy liên đoàn báo cho tôi biết tin địch pháo kích vào tiền cứ Liên đoàn 24 BÐQ ở Ban Mê Thuột. Tiền cứ này nằm sát trại Thiết-Giáp trên đường đi Bản-Don. Thiếu tá Hồng, chỉ huy tiền cứ đã bị thương. Sau đó là tin chiến xa VC bắt đầu tấn công vào trung tâm thị xã. Tin tức đứt đoạn vì không có đài tiếp vận và tiền cứ liên đoàn đã mất liên lạc. Ðêm đó đài BBC loan tin Ban Mê Thuột thất thủ. Tôi và cả ban tham mưu tiểu đoàn bàng hoàng, vì hậu cứ cũng như gia đình binh sĩ của tiểu đoàn tôi đều ở Ban Mê Thuột. Ngày 11/3/75 tôi nghe được tiếng Ðại tá Phạm Duy Tất trên tần số. Ông Tất đang bay trên trời Ban Mê Thuột và gọi tôi. Tôi hỏi ông về địch tình, về phản ứng của Chuẩn Tướng Lê Trung Tường. Ðại tá Tất buồn rầu trả lời:
“Ông Tường không đủ sức ngăn chúng nó toa ơi! Bây giờ chỉ còn hy vọng thằng Dậu cố gắng cứu vãn tình thế. Không biết có được hay không.”
Trung tá Lê Quý Dậu là Liên đoàn trưởng Liên đoàn 21 Biệt động Quân. Ông Dậu mới lên chỉ huy liên đoàn được hai, ba tháng, thay thế cho Trung Tá Lang (Lang Trọc) vừa giải ngũ. Tôi cố nài nỉ ông chỉ huy trưởng:
“Trường-An cho phương tiện bốc tôi về Ban-Mê-Thuột đi! Trường-An ơi! Vợ con tôi ở đó! Vợ con lính của tôi ở đó!”

Trường-An là danh hiệu truyền tin của Ðại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt Ðộng Quân Quân khu 2. Lúc đó tôi nghẹn lời, bên tôi người sĩ quan tiếp liệu tiểu đoàn, Trung úy Ðăng mắt cũng đỏ hoe. Tôi tỉnh người khi nghe ông Tất hứa hẹn, “Rồi! Ta sẽ nói lại với Số 1 (Thiếu tướng Phú) để bốc Thái-Sơn về.” Thái-Sơn là tên riêng của tôi, tôi mang tên này từ khi còn phục vụ ở Tiểu đoàn 11 Biệt Ðộng Quân, thời 1967-69.
Ðược lời như cởi tấm lòng. Tôi quyết định rút trung đội tiền đồn của Ðại đội 4/82 trên đồi Bù-Row cách 3 cây số hướng bắc về. Tôi cũng gọi sĩ quan đại đội trưởng một đại đội của Tiểu đoàn 63 Biệt Ðộng Quân đang tăng cường cho tôi lên gặp tôi. Tôi dặn dò anh kỹ càng những điều phải làm để phòng thủ Ngã Ba Kiến-Ðức thay cho Ðại đội 1/82 BÐQ của Thiếu úy Nguyễn Văn Học, nếu chúng tôi có trực thăng bốc đi. Tiếp đó tôi cho tiểu đoàn chuẩn bị hai ngày cơm vắt, vũ khí, đạn dược sẵn sàng. Sau khi lệnh chuẩn bị hành quân của tôi được thông báo tới mọi cấp trong đơn vị, tôi nghe tiếng bàn tán xôn xao trong các túp lều và bên giao thông hào. Niềm háo hức hân hoan lộ rõ trên những khuôn mặt sạm nắng. Những người lính gốc Rhadé, Jarai dưới quyền tôi đã lâu, nên qua nụ cười, ánh mắt của họ, tôi hiểu rằng lúc đó họ đang vui sướng vô cùng.
Suốt ngày 12/3/75, tôi không nghe tiếng Ðại tá Tất trên máy, nhưng tôi liên lạc được một phi công đang quan sát trên trời Ban Mê Thuột. Tôi nhờ anh ghi nhận và chuyển cho tôi những gì anh nhìn thấy dưới chân anh. Tôi mô tả con đường Hàm-Nghi cạnh nhà thờ Vinh-Sơn, là nơi gia đình tôi cư ngụ và khu hậu cứ Tiểu đoàn 82 Biệt Ðộng Quân. Sau hồi lâu quan sát, anh cho tôi biết rằng cả hai nơi đều nằm trong màn khói đen mù mịt. Buồn quá, tôi ngồi trước cửa hầm, ôm cây đàn guitar. Tay tôi chỉ bấm một cung Mi Thứ; tôi lần mò một bài tình ca buồn. Nhớ lại lần đầu, sáu năm trước, tôi và người bạn cùng đơn vị đi đón em gái anh ta lúc học sinh Trung Học Tổng Hợp Ban-Mê-Thuột tan trường. Sau đó mẹ tôi từ Hội An vào gặp bố mẹ cô ta. Mẹ tôi xin cô ta về làm dâu họ Vương. Bây giờ nàng đang bị kẹt trong vùng đạn lửa, một nách ba đứa con thơ, lại thêm bụng mang dạ chửa. Tôi ngồi thừ người trước cửa hầm trú ẩn của tiểu đoàn trưởng. Tôi không cảm thấy cái lạnh của sương đêm. Trời sáng lúc nào tôi không hay. Vừng dương bắt đầu le lói. Lại thêm một ngày. Bên tôi là những cây hoa móng tay. Mấy ngày rồi không ai tưới, hoa lá đã vàng vọt úa màu. Bên những cây hoa này, hai đứa con gái tôi đã đứng chụp hình. Con tôi cũng chỉ xấp xỉ cao cỡ những cây hoa đó. Sau Noẽl 1974, tôi đã đón vợ tôi và hai đứa con gái lớn lên tiền đồn này chơi vài ngày. Hai đứa bé suốt ngày chỉ quanh quẩn bên những cây hoa móng tay. Chợt những bông hoa móng tay trước mắt tôi như mờ dần đi. Một giọt nước mắt nóng rơi trên mu bàn tay. Ðầu óc tôi phừng phừng. Hai bàn tay tôi xoắn vào nhau, giày vò lẫn nhau. Tôi muốn đập phá, la hét, kêu gào để trút bỏ niềm đau đớn, phẫn uất đang nung nấu tâm can. Nước mắt cứ tiếp tục lăn trên má, qua môi, xuống miệng. Tôi oán trách ông Trời. Tôi oán trách Ðại tá Tất. Tôi oán trách Tướng Tường. Tôi oán trách Trung tá Dậu. Tôi tự oán trách tôi.
Chuẩn úy Lê Văn Phước (ban 3) len lén đến bên tôi. Phước đưa cho tôi cái khăn bông ướt,
“Bình tĩnh lại Thiếu tá! Ðài BBC nói Ban Mê Thuột thất thủ rồi! Ðánh nhau nhanh như vậy chắc là ít người chết. Nhà hai bác ở xa khu quân sự, hy vọng chị và các cháu không hề hấn gì.”
Cái khăn ướt làm mặt tôi bớt nóng. Tôi đứng lên bước hững hờ xuống khu pháo binh cũ, hướng bắc của bộ chỉ huy tiểu đoàn. Từ đây tôi có thể nhìn thấy một vùng rừng rậm xanh rì trải dài về hướng chân trời. Xa lắm, nơi chân mây hướng đông bắc là Ban Mê Thuột, nơi đó có gia đình tôi, gia đình của những người lính Kinh, Thượng, Jarai, Rhadé, Bana dưới quyền tôi.
Hai ngày dài buồn thảm nối tiếp trôi qua, tôi không nghe được tin tức gì của Ban-Mê-Thuột. Chiều 15 tháng Ba dân chúng từ buôn Bù-Binh hướng nam, nối đuôi nhau đi về Ngã Ba Kiến-Ðức. Gùi sau lưng, con trước ngực, họ từng đoàn lếch thếch qua mặt đồn tôi đóng, để về Nhơn-Cơ. Không rõ vì lý do gì, gần tối đoàn người dội ngược trở lại. Tôi cho đám dân tị nạn này tạm nghỉ qua đêm trong cái nhà tranh Câu Lạc Bộ của tiểu đoàn, sát chân đồi, bên lề đường.

(Còn tiếp)