Sinh 1956 tại Ðà Nẵng.
Hiện sống tại Melbourne.
Thơ, tiểu luận đăng phần lớn trên các tạp chí văn nghệ ngoài nước như Văn Học, Văn, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Tập Họp, Việt, Nhân Văn, Quê Mẹ, Diễn Ðàn. Gần đây, thơ Thường Quán xuất hiện trên Văn Việt trong nước.
Thơ Anh ngữ đăng rải rác ở The Age Saturday, Meanjin, Heat.
Tác phẩm đã xuất bản:
Ngoài Giấc Ngủ (Nhà xuất bản Văn Nghệ California, 1990), Hải Ðảo, Trở Lại (2017)
Thường Quán từng viết, “thơ là hủy hoại những giá trị ban đầu của chữ, phá vỡ tính ổn định của nó, để tạo những phản ứng mới và bất ngờ” (“Những mảnh vỡ ý nghĩ về thơ”). Từ đó ta thấy Thường Quán kén chọn chữ nghĩa… Có vẻ như từng chữ một đều là những suy nghĩ cô đọng, gợi lên nhiều hình ảnh nối tiếp.
Về gốc rễ của thơ, Thường Quán cho biết: ta có thể thả lửng như những đầu bạch dương mà mùa màng đã dọn hết lá, treo giữa trời kia, hay có thể kéo lại gần, cùng thứ kỷ niệm chung cùng, của những ai đã từng đi qua bìa một cánh đồng, đứng trước một căn nhà, về tới một bìa nước, nước soi rọi thơ ấu.
Tôi gởi bạn người cầm tập thơ này khoảng không gian ấy.”
Thơ Thường Quán ngoài bài Sông Hàn, Bình Thủy, Nha Trang… còn phần lớn những bài khác đều hình thành trong khung và tâm tình ở xứ người.
Ðó là thơ rất mới, nằm ở một liên-văn-bản trong đó người ta thấy một văn-hóa liên-quốc-gia, liên-lục-địa rất hiện-đại tuy viết bằng tiếng Việt. Thơ từ đó mang vẻ đẹp lạ với ngôn ngữ sáng tạo và đầy trí tuệ. SAO KHUÊ
Sông Hàn
Ðã đứng đó một buổi sáng
Ðã đứng vào đúng chỗ đứng ấy
Sông trôi kia, nước trôi kia, một người đội nón trên ghe, người đàn bà quẫy tay chèo
Chị nhìn nước, rong bèo của nước
Tôi nhìn chị, người đưa buổi sáng ra đi
Sẽ nhanh lắm, chớp mắt là một cách nói
Người áo cánh, chiếc thuyền nan, bóng di động duy nhất
Trên toàn bộ một cảnh trí của một ngày lóa lòa ngớp ngợp nắng
Hay tôi là người mù
Hay là bà mụ
Ðã đưa tôi ra giữa căn phòng sáng sơ sinh
Hay chị là người mẹ
Hay tôi là con rái cá
Mất cành cây rời rạc rụng Túy Loan
Nắng dắt tay tôi dưới tán bàng khổng lồ đứng ngó qua Hà Thân
Ðã đứng đó giọng người di cư Lệ Thủy
Tôi phát âm cũng buổi sáng nắng từng trụ cột đỡ rầm trần
Một đầu tàu rân đen đủi
Tôi té vỡ trán bên một anh chó vàng
Tay đưa vào miệng vị mặn đó
Nó chưa có tên
Chị chỉ chở khoảng trời xanh nặng
Chiến tranh một chữ tôi không thèm nói, tôi chối từ
Nước! Nước! Lũ trẻ con chạy trong đêm tối
Ôm những chiếc bát đất nứt nẻ, rách miệng
Tay chúng quơ quơ, mắt thì nhắm, chị chỉ dẫn chúng làm sao
Cho được nhẹ và rằng này dịu dàng
Cimetière Montparnasse,
một trưa với Quỳnh
tặng chị Thụy Khuê, anh Lê Tất Luyện
tưởng nhớ anh Lê Ðạt
Tiếng phong cầm từ giữa trưa quang sau cửa sổ
một thang lầu đổ sợi gió ban công
nghiêng đầu mái nâu phù điêu trắc bá
cây trăm năm người ngủ giấc vừa.
Tay khoanh ngực trần sỏi lăn nắng và chuông gió
trẻ thơ tay dắt người mẹ áo đầm
người vú bầu sơ cho em ngày sữa
vườn bóng ca rô
em đưa năm ngón
náo níu ngày hè lòng mình tư cánh
cà phê khuy trắng
rạ rơm chưa thả nổi ao hồ
đọng lắng mặt thu sơ loang lổ thả
bèo rơ bài hát vỡ lòng rồ
chàng đã đi xa ngoài tầm tâm ảnh
ngựa què về buộc gốc trúc xanh
phên liếp yến oanh tình tự lửa
nắng bâng quơ đốt tiết thu phân
tiếng phong cầm phong lữ
cá nghiêng trái nhỡn huyễn ngóng trời
rồi lặn biến
vào tăm bọt khỏa thủy tinh tròng.
Người ngủ giấc đằm ngày khô rang
đụng tay bên này bên kia đều khe khẽ âm tiếng
phủ dụ bữa ăn trưa
trên khoanh váy bánh
nửa trái đào mơn
cốc men say lừ mắt
sẽ bỏ nửa ngày tan sở
cơn sốt bất thường
cuộc tương tư người đã đi khuất biệt
sau những hàng bia mộ
tươm tất chữ và phù điêu
ngó theo gió tất bật
hất rối nâu thôi để vậy, chẳng tháo gỡ
hậu cấu trúc đôi mình
hai ta trên dưới
sau lưng, Sartre với de Beauvoir
một nỗi dềnh thanh xuân Jean Seberg, trán ấy mày ấy
một chìm khuất sàn đá đen Sam Beckett ghi mấy chữ sổ tay
trốn lánh vườn sau tìm mải miết ác hoa
đồ bản Baudelaire truy tìm tưởng thôi đã bỏ cuộc.
… (trích)
Southbank Melbourne
for Q. – 15-5- 2016
Cây xáo động và chim gỡ rối
những lát đá đường đằm tĩnh chảy xuôi
nắng chưa lên, người chưa hiện
tay trần mùa hè, tượng tạc mùa thu
ngày xa khuất đó mây dường kín dày hơn, áo dạ kéo cao hơn
chiếc cổ ở khung cửa hải cảng cực Nam
một cột khói hải dương tìm tới
một tiếng dội cột buồm
những thủy thủ đốt lửa
nước réo cà phê trên bếp xanh lì lầm
ngày xa khuất đó Á Châu là một viền cong
sự trôi dạt và đắm, kéo dài hơn một cự ly
không nằm ngoài một đuôi mắt
nhưng chỉ có kẻ tín thành nhất may mắn thấu đạt
Ngôn ngữ mà những kẻ đứng trên boong tàu dò dẫm nghe ngóng
sẽ hiện trên hoa văn chiếc khăn
một sườn núi trải ra, một đôi tay mang tới
triêu dương để lại độ cháy nồng trên vòm trăng khuyết
tĩnh tịch dưới một đáy hồ
sóng đã thôi reo sau đêm gió chướng
tiết trời keo lại trên ngọn dương tùng
một mỏ chim cắn miếng trong trẻo
kêu rân vang ức ngực, sắc diệp lục
nguyên tố khởi sinh, kẻ đứng thù tiếp hương sương sớm
một đọt cau, một nương trà
Tôi từng đứng đó và em từng bay lượn ở buổi sáng ấy
khi gió vẽ những hình thù trên thềm cát
những hạt cát di động trong ánh sáng
Có gì trần trụi hơn cát, áo lá nào linh động hơn ngày thu, ánh sáng
chúng ta thả mặc phần trống của tương lai
căn phòng ngày đó, và chúng ta tới đây
chiếc cửa vòm những mẫu tự la tinh, những họa tiết mới
một ngày hỏa hoàng, ký ức cháy lên cùng đầu lưỡi hiện tại
sự thả mặc hẳn đã tìm được bầu trời lạ lẫm từ ái
những bạch dương, ngô đồng, bạch đàn, những hiền triết du sĩ
những thính phòng, chiếc bảng đen ký hiệu của phương hướng
… (trích)