Menu Close

Ngày ta bỏ núi (kỳ 6)

Cuối tháng 3-1975, một ngày sau khi triệt thoái khỏi tỉnh Quảng Đức, cả hai Trung tá Hoàng Kim Thanh và Đào Đức Châu đều di tản bằng trực thăng, trao quyền chỉ huy tạm thời Liên đoàn 24 Biệt Động Quân cho Thiếu tá Vương Mộng Long. Hơn một tất trách, một vô trách nhiệm, vì Trung tá Thanh chỉ bị thương nhẹ và Trung tá Châu không lý do rời nhiệm sở. Chi tiết này càng cho thấy ý chí cùng sự can trường của Thiếu tá Long nhất quyết ở lại cùng binh sĩ và đem toàn Liên đoàn về Lâm Đồng. 144 cây số từ Kiến Đức về Di Linh, xuyên qua cao nguyên Bảo Lộc bằng đường rừng, phải đo bằng gang bàn chân tấy đỏ để hiểu gian lao và kỷ luật của những người lính, trong hoàn cảnh tan rã của quân đoàn 2. Thiếu tá Long không duy nhất giữ vững đội hình mà còn tấn công mật khu Việt cộng, và luôn dẫn đầu ở vị trí khinh binh thứ 3. Ông xứng đáng là một cấp chỉ huy đảm lược được nể phục.

[Trần Vũ]

Tôi không có dịp tham dự vào cuộc phản công tái chiếm chợ Xuân Lộc, khách sạn Long Khánh và Cua Heo cũng như những cuộc giao tranh trong khu trung tâm thị xã. Tin tức liên quan đến mặt trận hướng tây tôi hoàn toàn mù tịt. Suốt mười ngày dầu sôi lửa bỏng Tháng Tư Long Khánh 1975, tiểu đoàn 82 Biệt Ðộng Quân chỉ biết có mặt trận đông nam thị xã mà thôi.

Bên hướng đông suối Rét là Lữ đoàn 1 Dù của Trung tá Nguyễn Văn Ðỉnh (Khóa 15 Võ-bị) làm “búa”. Bên hướng tây suối Rét là cái “đe” do tôi (Khóa 20 VB) chỉ huy, gồm TÐ82 BÐQ tăng cường thêm một đại đội của Tiểu đoàn 3/Trung đoàn 43 Bộ binh của sư đoàn 18, thêm một đại đội Ðịa Phương Quân của Tiểu khu Long An và một đại đội Ðịa Phương Quân từ Bình Long di tản về.

Làm “đe” thì đỡ công di chuyển, đỡ mệt thân xác, dễ kiểm soát đội hình, quân số. Nhưng làm “đe” cho Nhảy dù thì quả là mất mạng như chơi! Pháo binh Dù tưới như mưa, làm “đe” bị lãnh tản đạn là thường. Trong trận này có ba người lính Thượng của tôi thiệt mạng vì tản đạn của pháo Dù. Tháng Tư 1975 tôi đã chôn họ ngay bên dòng suối Rét. Tôi đã cầu nguyện cho linh hồn họ yên vui trên đường phiêu du về nguyên quán Pleiku.

Từ ngày đầu chiến dịch, một anh phóng viên chiến trường của một tờ báo ở Sàigòn, đã có mặt bên tôi không rời. Anh có dáng lòng khòng dong dỏng như một triết nhân. Anh mặc đồ trận, đội nón sắt, nhưng không trang bị súng ống. Anh chỉ có cái máy ảnh, quyển sổ tay, và cây bút làm hành trang. Ngày mà đạn pháo Dù bao trùm suối Rét, cái lều của anh nhà báo rách toang. Cũng may anh thoát chết vì lúc đó anh đang ở với Ðại đội 1/TÐ82 BÐQ của Thiếu úy Học, anh bận chụp hình cái tank cháy ngày hôm trước nơi hàng rào bắc của Trại Pháo Binh 181.

ngayta_bonui-01

Giữa Tháng Tư, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù tung ra nhiều đợt tấn công mãnh liệt nhắm vào một trung đoàn Cộng sản Bắc-Việt trong đồn điền chôm chôm hướng đông nam suối Rét. Chúng tôi ở bên này bờ, hào hứng quan sát pháo Dù nổ rền trời phía bờ bên kia.

Từ nơi đồn điền Thống tướng Tỵ, cán binh Cộng sản từng tốp chạy túa ra bìa rừng, nhảy ùm xuống suối Rét. Những tay súng Pleime nhả đạn từ từ và chính xác. Những người lính Bắc-Việt bật lên khỏi mặt nước như những con cá trắm cỏ, quẫy mạnh một lần rồi chìm luôn…

Những tiếng hô “Biệt Ðộng! Sát!” ; “Biệt Ðộng! Sát!”  hòa lẫn tiếng súng M16, đại  liên M60 làm cho một số cán binh Bắc-Việt vừa ló đầu ra trảng trống đã vội chạy ngược lại phía bìa rừng. Rồi cũng có người cầm cờ trắng chạy từ trong bìa rừng ra bờ suối, súng AK giơ lên cao khỏi đầu: Thế là họ đầu hàng!

– Thôi! Vứt súng xuống suối rồi lội sang đây! Vứt súng xuống suối! Giơ tay lên cao khỏi đầu, lội sang đây! Nghe rõ chưa?

– Dạ cháu nghe rõ ạ!

Tôi và người phóng viên nhà báo mồi cho ba anh cán binh CSBV ba điếu thuốc lá. Họ còn rất trẻ, chỉ độ mười lăm. Bơ phờ mất ngủ, mắt quầng thâm.

– Cậu mấy tuổi rồi?

– Dạ thưa thủ trưởng, cháu lên mười sáu ạ!

– Sao đi bộ đội sớm thế? Mới mười sáu mà đã đi lính rồi à?

– Cháu là thanh niên xung phong. Thủ trưởng của cháu nói rằng Miền Nam giải phóng rồi, chúng cháu chỉ vào để tiếp thu thôi ạ!

– Thế đánh nhau mấy ngày nay cậu thấy thế nào?

– Thưa thủ trưởng, nhà cháu sợ lắm ạ!

– Thôi đừng sợ, chốc nữa có người đưa cậu về Sàigòn. Hết chết rồi, đừng sợ!

– Thủ trưởng có nói thật không thủ trưởng? Nhà cháu sợ chết lắm thủ trưởng ơi!

Ðôi mắt trẻ thơ ngơ ngáo. Ngón tay cậu bé run run cầm điếu thuốc thơm đưa lên môi, chỉ sợ nó rơi… Thì ra thế! Những cậu bé này được đưa vào đây là để …tiếp thu miền Nam!

Cán binh Bắc-Việt
Cán binh Bắc-Việt

Một hôm, Ðại tá Hiếu gọi tôi vào máy để “check fire”. Tôi liếc qua nơi cần hỏa tập. Ồ! Cái tọa độ ấy chẳng liên hệ gì tới quân bạn, không trở ngại!

Rồi Ðại tá Hiếu lại gọi tôi vào máy để “check fire”. Rồi tôi lại trả lời, “không trở ngại!” Cứ vậy, ba bốn lần hỏi qua, đáp lại. Chiều hôm ấy tôi nghe một tiếng “ùm!” âm vang hướng đông bắc.

Tôi đã từng nghe B52 đánh cận phòng nhiều lần trên chiến trường cao nguyên Vùng 2. Tôi đã nghe quen tiếng những trái bom 500 cân Anh, 300 cân Anh thun thút từ trên mây xanh, những tiếng “ủn!… ủn!” theo đuôi nhau chúi trong không khí kiếm mục tiêu. Nghe tiếng bom nổ chùm, tôi có thể phân biệt được đó là Box 3km x 1km, Box 2km x 1km, hoặc Box 1km x 1km.

Tiếng “ùm!” lần này có vẻ như âm vang của một Box B52 đánh gọn ô vuông mỗi chiều 1km x 1km ngày nào? Tôi thấy một cột bụi đỏ dâng cao dần dần tới mây. Trời cao và mây xanh ngắt. Có một chiếc C130 còn lượn trên vùng. Tôi nghĩ, chắc chiếc C130 là tác giả cú “ùm!” vừa qua.

Mãi sau này tôi mới biết tiếng “ùm!” đó là một trong hai trái CBU 55 (hay CBU 85) được sử dụng trong trận Xuân Lộc. Một trái được thả xuống vùng Suối Tre hướng tây bắc Long Khánh, tôi không nghe báo, trái thứ nhì thì được thả xuống chận đường kẻ thù đang nhắm tiến vào khu vực phòng thủ của trung đoàn 43/SÐ18 BB trong đó có TÐ82 BÐQ tăng cường.

Mặt trận tạm yên thì phái đoàn Thượng Hạ Viện từ Sàigòn đã bay ra sân bay Long Khánh để ủy lạo những người lính Vùng 2 đang đổ máu bảo vệ mảnh đất còn lại của quê hương nơi Vùng 3. Những gói quà, những cái bắt tay, những lời hứa hẹn khen thưởng làm ấm lòng chiến sĩ.

Tôi nằm trên võng dưới tàn cây điều lộn hột, lòng buồn nhớ thương vợ con tôi không rõ giờ này ra sao. Những người lính dưới quyền tôi cũng vậy, mặt người nào cũng không vui, thân nhân chúng tôi đã rơi vào tay địch nơi chân trời cũ xa xôi Ban-Mê-Thuột, Pleiku…

Một sớm mai, từ hướng đông, chiến xa địch dàn hàng ngang tiến về vòng đai phòng thủ Xuân Lộc. Ðại tá Hiếu gọi tôi và cho biết lần này bộ binh tùng thiết của CSBV có vẻ đông hơn những đợt tấn công trước đây nhiều.

Pháo binh bạn đã bắn tối đa để chận địch. Tôi thấy vài cột khói bốc lên từ những chiếc tank bị cháy. Có một chiếc T54 bị bắn đứt xích cách vòng rào trại Pháo binh 181 không xa lắm. Chúng tôi nghe tiếng búa của bộ đội Cộng sản gõ trên thành xe, chúng đang sửa cái xe tank bị đứt xích!

Pháo binh từ trong vòng đai liên tiếp trực xạ hướng vào chiếc T54 bị thương. Ðịch không phản ứng. Tiếng búa chạm sắt cũng im. Họ án binh chờ lệnh? Rồi bên quân bạn cũng không thấy ai yêu cầu tác xạ thêm, pháo binh của ta cũng tạm ngưng.

Từ trưa tới chiều chạng vạng, mặt trận yên tĩnh lạ lùng. Khi mặt trời vừa lặn, pháo địch từ nhiều hướng khác nhau tập trung lên thành phố Xuân Lộc, đủ loại súng nặng, bắn thẳng, cầu vồng, có điều khác lạ là tất cả đều là pháo tầm xa. Pháo địch kéo dài cỡ một giờ đồng hồ rồi im hơi.

Màn đêm buông xuống, tôi nghe tiếng động cơ chiến xa nổ rộ, rồi nghe tiếng bánh sắt chạm đường đất đá, âm vang kéo dài từ gần rồi xa dần. Toán tiền thám BÐQ ngoài vòng đai báo cáo, chiếc T54 bị đứt xích đã được kéo đi và cả đoàn chiến xa dàn hàng ngang ngoài vòng đai phòng thủ cũng đang rút đi. Tôi báo cáo sự việc này cho Ðại tá Hiếu, ông cũng ngạc nhiên không hiểu vì lý do gì, địch đang chuẩn bị một cuộc sống mái thì đột nhiên đổi hướng.

Những ngày sau đó tình hình im ắng như tờ, những con ve sầu trên ngọn điều lộn hột cất tiếng hòa ca điệu cuối xuân trong khung cảnh thật là tĩnh mịch êm ả đồng quê. Những cây chuối trên đồi rủ lá. Những sợi khói lam từ mái rạ bay cao.

Khoảng 3 giờ chiều ngày 20/04/1975 Ðại tá Hiếu cho xe ra sân bay đón tôi vào họp hành quân. Ông rầu rầu:

– Ông Toàn ra lệnh cho chúng ta bỏ Long Khánh rút về Bà Rịa, ông Ðảo vừa được lệnh và cho tôi biết. Tôi đón chú vào cho chú hay để mà chuẩn bị, chút nữa ông Ðảo họp với ông Toàn xong trở về sẽ có lệnh chi tiết sau.

Tôi ngồi với Ðại tá Hiếu một lúc thì có điện thoại của Tư lệnh, đại khái ông cho biết, lệnh bỏ Long Khánh là từ Tổng thống. Ðịch không vây Long Khánh nữa mà đi bọc về đánh Biên Hòa và thủ đô Sàigòn nên quân ta phải bỏ Xuân Lộc, về bảo vệ thủ đô. Tướng Ðảo cực lực phản đối vụ triệt thoái này nhưng Tổng thống và tướng Toàn đã quyết định cắt tiếp ứng, tiếp tế, yểm trợ cho SÐ18 để ép sư đoàn này thi hành lệnh lui binh. Tôi được lệnh rút TÐ82 BÐQ về ngã ba Tân Phong trước tám giờ đêm chờ lệnh.

Thiếu tá Vương Mộng Long hình chụp 1958
Thiếu tá Vương Mộng Long hình chụp 1958

Tiểu đoàn 82 Biệt Ðộng Quân cuốn lều, lấp hầm hố phòng thủ khi đêm rơi.

Cuối Tháng Ba năm 1975 chúng tôi đã làm việc này ở Kiến Ðức, chúng tôi đã bỏ lại sau lưng một trận địa, một kẻ địch kinh hoàng đến độ hai ba ngày sau mới dám mon men vào điểm trú quân đã bỏ trống của đơn vị Biệt Ðộng Quân một thời ngang dọc Vùng 2. Tôi đã rút đi, theo lệnh, để lại Kiến Ðức hàng chục nấm mồ thuộc cấp của mình ven quốc lộ 14. Quận Kiến Ðức và đồn Pleime cách nhau không bao xa, cũng còn là trong lãnh thổ Vùng 2!

Lần này mười hai người lính của Pleime ngủ lại bên bờ suối Rét, lạ lẫm quê người, quanh đây chỉ có điều lộn hột, chuối, xoài và đồng cỏ mênh mông. Nơi này thật xa những ngọn núi hùng vĩ Chư Gô, Chư Don, thật xa con sông mơ màng La Meur lững lờ quanh năm. Công lao khó nhọc dặm trường nửa đường đứt gánh!

Ðơn vị tôi vừa di chuyển ngang cổng Tòa Hành Chánh tỉnh Long Khánh thì Ðại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng đã chờ ở đó, Ðại tá yêu cầu tôi cho Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đi với đoàn quân của Tiểu khu Long Khánh, và ông xin được tháp tùng tôi trong cuộc rút lui.

Tôi từ chối với lý do, “Ðại tá có cả một tiểu khu, Ðại tá phải chỉ huy họ, là cấp chỉ huy của họ, Ðại tá không thể đi theo tôi mà để họ không người chỉ huy.”

Ðại tá, hiểu ra, cám ơn tôi đã có lời nhắc nhở nhiệm vụ của ông. Chúng tôi bắt tay từ biệt.

Mãi tới năm 1979 tôi mới gặp lại Ðại tá Phúc trong trại cải tạo Nam-Hà A ngoài Bắc. Trong cuộc rút binh, Ðại tá Phúc đã bị bắt khi đi được nửa đường Xuân Lộc, Bà Rịa và bị giữ trong trại tù từ ngày đó.

Ra tới quốc lộ 1 tôi phải cho quân đi hàng một và cách lề trái đường vài chục mét. Khi đến ngã ba Tân Phong tôi được lệnh ngừng lại chờ lệnh. Trên QL 1 những chiếc xe cam nhông chở đầy ắp lính ngồi hai hàng, xe chạy như bay, chiếc này bám đuôi chiếc khác. Xe mở đèn pha sáng choang. Có những người lính bộ binh lưng mang nặng ba lô, súng đeo vai đi sát hai bên đường.

Một anh lính bộ binh chạy từ bên phải sang bên trái đường, bị trượt chân té, văng nón sắt. Chiếc xe cam nhông chạy qua, đè ngang hai chân anh. Anh lính la hét đau đớn được một câu thì chiếc xe cam nhông thứ hai đã đè đủ năm chiếc bánh bên trái qua người anh ta. Tôi nghe rõ tiếng “rốp!” khi bánh xe lăn qua đầu anh. Cái xác dẹp lép của người lính cách chân tôi khoảng hai mét. Tôi kéo xác anh vào lề đường. Cái căn cước quân nhân cho tôi biết tên người xấu số là Nguyễn Thành Long, sinh quán Long An.

Hai bên đường, người đi như trẩy hội, giữa đường, xe cứ nối đuôi nhau.

Tôi chờ khoảng mười phút thì Ðại tá Lê Xuân Hiếu, Trung đoàn trưởng trung đoàn 43 cùng người liên lạc truyền tin của ông tới gặp tôi. Tháp tùng Ðại tá Hiếu còn có ông Trung tá Linh, sĩ quan phụ tá hành quân của trung đoàn 43. Ðại tá Hiếu cho tôi biết, Chuẩn tướng Ðảo chọn TÐ82 BÐQ làm lực lượng bảo vệ Bộ Tư Lệnh di chuyển.

Không lâu sau đó, một chiếc Jeep trờ tới, Chuẩn tướng Lê Minh Ðảo cùng bốn quân cảnh nhảy xuống, chiếc xe chạy đi ngay.

Chúng tôi xác định nhiệm vụ, trao đổi tần số rồi lên đường.

Nhiệm vụ được phân chia rõ ràng: Tướng tư lệnh chỉ huy toàn thể trận địa. Ðại tá Hiếu chỉ huy cánh quân của TÐ82 BÐQ và TÐ1/Trung đoàn 43 BB của Thiếu tá Nguyễn Khắc Tung (Khóa 20 Võ-bị) đi theo sau. TÐ82 BÐQ chịu trách nhiệm bảo vệ Chuẩn tướng tư lệnh trên đường di chuyển. TÐ3/Trung đoàn 43 BB tùng thiết, được đặt dưới quyền Trung tá Nô, Thiết đoàn trưởng Thiết đoàn 5 Kỵ Binh. Riêng tiểu đoàn 2 của trung đoàn 43 BB của Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế đóng quân trên núi Thị phải gánh chịu nhiệm vụ nặng nề nhất của cuộc triệt thoái, làm lực lượng đoạn hậu của SÐ18 BB.

Những khi đọc lại bút ký chiến trường Mùa Hè Đỏ Lửa của Phan Nhật Nam, hồi ký Cửa Việt của Cao Xuân Huy, rồi Ngày Ta Bỏ Núi của Vương Mộng Long… tôi đều tự hỏi vì sao với những sĩ quan can đảm và những người lính chấp nhận hy sinh mà Bộ Tổng Tham Mưu để thất trận?

 

Hầu hết các giải thích đều quy cho Hoa Kỳ tháo chạy và tri ân Dương Văn Minh đã tránh cho Sàigòn tắm máu. Tháng 6-1940 Thống chế Pétain đầu hàng Đức, cũng vì muốn tránh cho dân Pháp không phải tắm máu. Pétain đi vào lịch sử ở vị trí kẻ phản quốc, bị kết án tử hình rồi chết trong ngục. Dân Pháp vẫn xem Pétain là một vết nhơ. Không phải Dương văn Minh mà chính những người lính đánh trận Xuân Lộc mới cần được tri ân, vì đã đem đến mẩu vinh quang cuối cùng.

Trần Vũ

Ðường Liên tỉnh lộ Long Khánh, Bà Rịa nhỏ và hẹp. Ra khỏi ngã ba Tân Phong một đỗi, tôi thấy những bành đạn pháo binh xếp dọc lề đường, đây là bãi tiếp tế của sư đoàn, xa về hướng nam để đánh lạc pháo địch. Tuy vậy mới chiều hôm ấy địch đã phát giác bãi này, và pháo binh CSBV đã đánh phá đoạn đường này cả giờ.

Chúng tôi đi bên trái đường, thỉnh thoảng chân tôi đá phải những xác người nằm chết rải rác đó đây, những người dân chạy giặc, trúng đạn pháo chết oan, những cái xác còn mềm, có cái còn toàn thân, có cái chỉ còn một phần hình hài con người.

Tôi đi ngang qua đồn điền Michelin vào lúc công nhân ở đây đã lên xe chạy từ lâu. Những gia đình chậm chân thì khăn gói tất tả, vợ chồng con cái hối hả lên đường. Có những bé thơ chừng năm, bảy tuổi, chân bó áo bó quần từng cục vải to. Tội nghiệp cho bé, chân non đường dài!

Tôi chạnh nhớ đến ba đứa con tôi ở Ban-Mê-Thuột, đứa lớn nhất mới bốn tuổi, vợ tôi lại đang mang bầu. Ban-Mê-Thuột đã rơi vào tay giặc từ đầu Tháng Ba năm 1975. Gia đình tôi đã rơi vào tay giặc khi tôi gắng sức bảo vệ gia đình những người khác ở Quảng-Ðức.

Ðầu Tháng Ba, khi có tin địch sắp đánh Ban-Mê-Thuột, tôi đã gởi một cái điện khẩn cấp cho Bộ Chỉ huy BÐQ/Quân Khu 2 và Bộ Tư lệnh Quân đoàn II cho phép tiểu đoàn tôi về phòng thủ thị xã này. Không ai trả lời cái điện cầu xin trên. Ðây là nỗi ân hận sâu xa nhất trong đời lính chiến của tôi, đó cũng là nỗi buồn ám ảnh suốt đoạn đời còn lại của người chỉ huy trực tiếp của tôi, Chuẩn tướng BÐQ Phạm Duy Tất.

Ðoạn đường vài chục cây số từ Tân Phong đi Bình Ba, Bà Rịa thực ra không có gì là đáng ngại đối với những người lính sơn cước của TÐ82 BÐQ. Nhưng cái nhiệm vụ nặng nề bảo vệ Tư lệnh Hành quân đã làm tốc độ tiến quân của chúng tôi giảm đi nhiều so với khả năng.

Ði chừng nửa giờ tôi lại phải cho đơn vị dừng quân bố trí chờ đơn vị theo sau. Quân nhân của những đơn vị khác đi hàng một trên đường, vậy mà vẫn chậm hơn nhiều so với đội hình tác chiến một hàng dọc của TÐ82 BÐQ đi sâu gần bìa rừng trái trục lộ.

Có lúc hỏa châu soi khi ngừng quân, Tư lệnh quan sát bên đường một lúc rồi hỏi tôi:

– Quân của Long đâu sao qua không thấy?

Tôi phải giải thích với ông rằng đơn vị tôi đã được tập luyện thành thói quen, bất cứ lúc nào dừng quân, mỗi người lính tự động núp vào bụi cây, gò đất, nếu không có gì ẩn nấp, họ phải ngồi thủ thế, súng trên tay sẵn sàng tác xạ. Hỏa châu không đủ soi sáng đội hình, nên Tư lệnh không thấy rõ họ.

Nghe tôi giải thích có lý, tướng gật đầu:

– Well well, very good!

Tới một cái cầu nơi con suối sâu, nước chảy ào ào, đoàn quân qua cầu hàng dọc, rồi chuyển sang hàng ngang tiến sâu về hướng bìa rừng, khi an ninh đã sẵn sàng, tôi mới mời Tư lệnh và Ðại tá Hiếu rời vị trí ẩn nấp tiếp tục lên đường.

Chúng tôi đến giữa cầu thì nghe từ đầu dốc phía sau, tiếng chuông xe đạp, “kính coong! kính coong!”

Rồi một người đàn bà la lớn:“Ê các cha! Xe tui không có thắng, tránh xa! Tránh xa!”

Thế là tụi tôi và Tư lệnh đứng nép một bên cầu, cầu không có lan can, chỉ sợ người đi xe đạp lao vào mình thì chắc mình sẽ rớt xuống sông trình diện hà bá!

Khi người đi xe lướt qua trước mặt, nhờ ánh hỏa châu soi, chúng tôi thấy rõ mặt người vừa la, một bà trung niên rất béo, cưỡi chiếc xe đàn ông loại để thồ đang vèo vèo lao xuống dốc.

Chợt chiếc xe vướng cục đá, tưng lên, trệch hướng, và lao xuống dòng nước trắng xóa đang réo ầm ầm dưới kia. Chúng tôi nghe tiếng thét của người đàn bà ấy ngân dài trong thung lũng:

“Á !…Á !…Á !…”

rồi thì…

“Ùm!”

Sau dư âm của tiếng “Ùm!” cảnh vật lại trở về bình yên. Tôi rọi đèn xuống để quan sát tình trạng người bị nạn thì chỉ thấy một khối đen trôi theo dòng nước cuốn nhanh.

Ðoàn quân vẫn tiếp tục hành trình. Tư lệnh vừa đi vừa đàm thoại với những cánh quân ở xa. Vì cùng tần số, tôi biết Trung tá Trần Minh Công Trung đoàn 48/SÐ18 BB, Ðại tá Ngô Kỳ Dũng Trung đoàn 52/SÐ18 BB đang ở nơi nào.

Khi đến gần ngã ba Xà Bang thì cánh quân của tôi đã bỏ đơn vị theo sau một đoạn hơi xa. Trong bìa rừng sâu tôi nghe tiếng súng báo động của địch. Những tiếng “Tắc!Tắc!…Tắc!…”  hai ngắn, một dài, từ hướng Xuân Lộc tiến dần từng chặng về hướng Nam. Rõ ràng địch đang âm mưu gì đây!

Ðại tá Hiếu thì cứ luôn bận tâm đến đứa con đi đoạn hậu, TÐ2/43, đơn vị này bắt đầu rời núi Thị. Tôi rất khâm phục cái trầm tĩnh và sức chịu đựng của người sĩ quan đàn anh này. Chân ông còn tháp một mảnh platinum vì chiến thương, vậy mà ông cố theo bén gót những người lính miền núi mà không để hé chút dấu hiệu mệt nhọc nào, quả là một sự cố gắng phi thường.

Sắp đến ngã ba Xà Bang, tôi thấy một cái xe Citroen dân sự bị bắn xẹp bánh, nằm giữa đường. Khi tôi rọi đèn pin vào trong xe thì thấy hai ghế trước bỏ trống, trên ghế sau là xác một bà cụ già. Trên tay bà cụ còn ôm một cái cơi trầu. Cái cơi trầu bung nắp, những lá trầu đẫm máu nằm rải rác trên nệm xe. Tư lệnh xúc động bùi ngùi nhìn cái xác người dân nằm đó, người dân bỏ cuộc giữa đường dẫn tới chốn bình an. Buồn rầu đóng cửa chiếc xe Citroen lại, tôi nhủ thầm: “Lỗi tại chúng tôi! Lỗi tại chúng tôi!”

Rồi tôi lâm râm đôi lời cầu nguyện cho người nạn nhân chiến cuộc.

Ðến ngã ba Xà Bang thì tướng tư lệnh mệt lắm rồi, ông đề nghị:

– Long ơi! Có nên cho anh em nghỉ một chút được không?

– Ðịch nó đã phát giác ra cuộc rút quân của chúng ta rồi, chắc chắn có bôn tập truy kích. Vị trí này rất nguy hiểm không dừng quân được đâu Thiếu tướng. Nhất là ban đêm, đang đi mà ngừng lại nằm xuống là bị ngủ mê ngay, rất khó dậy nổi mà đi tiếp. Gắng vài giờ nữa là tới chỗ an toàn. Cố lên đi Thiếu tướng!

Tôi vừa từ chối, vừa kéo tay Tư lệnh tiến lên. Tôi huýt gió bài “The Longest Day” Tư lệnh huýt gió theo, và chúng tôi tiếp tục bước đi. Hướng Xuân Lộc vẫn ì ầm tiếng đại bác. Hỏa châu lập lòe phía chân trời xa.

Vừa lúc ấy trên máy liên lạc của Trung đoàn 43 BB, Thiếu tá Dư, Tiểu đoàn trưởng 3/43 BB báo cáo rằng đoàn cơ giới của anh và Trung tá Nô Thiết đoàn 5 Kỵ binh đã gặp quân Dù án ngữ ngõ vào Bình Ba, họ đang chờ xác nhận của cấp trên rồi mới cho phép quân Xuân Lộc tiến vào. Tướng tư lệnh thở phào nhẹ nhõm, thế là chuyện “link-up” với quân bạn đã xong, bây giờ chỉ còn chuyện theo dõi an nguy của đoàn hậu quân là Ðịa Phương quân Tiểu khu Long Khánh, Lữ đoàn 1 Nhảy dù và Tiểu đoàn 2/43 BB.

Chúng tôi dấn bước tiến nhanh về phía trước, xa xa vọng lại tiếng gà gáy sớm. Khi chúng tôi nhìn thấy ánh đèn dầu của xóm thôn le lói, cũng là lúc máy truyền tin của Tiểu khu Long Khánh báo tin cho Tư lệnh rõ rằng họ đang chạm địch. Rồi đến tin tức Lữ đoàn Dù chạm địch. Những khẩu pháo Dù đặt bên đường đầu xóm bắt đầu tác xạ từng tràng yểm trợ cho quân bạn.

Mặt trời hừng đông, một chiếc xe Jeep chạy đến đón Tướng Tư lệnh và tùy tùng của ông. Chiếc xe thứ hai đến đón Ðại tá Hiếu, Trung tá Linh và anh lính truyền tin Trung đoàn 43 BB.

Tôi cho đơn vị đi sâu vào hướng làng xã rồi dừng quân dưới một bụi tre làng. Tôi cho các đại đội bố quân, cắt người canh gác. Ðầu dựa ba lô, mắt tôi nhíp lại rất nhanh.

ngayta_bonui-03

Vương Mộng Long

(Còn tiếp)