Thưa bác sĩ,
Nhà tôi đang có thai và đã đi khám thai và bác sĩ gia đình đã khám bệnh và cho mua loại đa sinh tố. Xin bác sĩ cho biết công dụng của các sinh tố này.
Xin cảm ơn bác sĩ. Nguyễn trọng Thưởng
Đáp
Chào ông Thưởng
Xin cảm ơn ông về câu hỏi này vì đây là câu hỏi rất hay và thực tế. Sau đây là câu trả lời của chúng tôi.
Trong thời gian có thai bác sĩ thường khuyên các bà mẹ là cần uống thêm một số sinh tố. Lý do là khi có thai bà mẹ còn phải cung cấp cho thai nhi nữa. Sau đây là những sinh tố/ khoáng chất mà bà mẹ cần.
Sinh tố A: Sinh tố A giúp da lành mạnh, thị giác tốt và xương mau lớn.
Nhu cầu sinh tố A khi mang thai không cần gia tăng, chỉ cần giữ đủ như mức bình thường là khoảng 750 mcg mỗi ngày. Lượng sinh tố A này có thể dễ dàng có được trong phó mát, sữa, bơ, các loại rau trái …
Tránh uống thêm sinh tố A quá nhiều vì có nguy cơ ngộ độc. Người mẹ có thể bị nhức đầu, đau cổ, buồn nôn… Thai nhi có thể bị khuyết tật ở tai, tứ chi, rối loạn chức năng thận và hệ thần kinh.
Cần lưu ý là thuốc trị mụn trứng cá da Accutane có hoạt chất là sinh tố A nên không được dùng khi mang thai.
Sinh tố nhóm B: Mỗi ngày, người mẹ cần khoảng 1.5 mg sinh tố B1 (thiamine), 1.6 mg sinh tố B2 riboflavin), 17 mg sinh tố B3 (Niacin) . Các sinh tố này đều có nhiều trong các loại thực phẩm thịt, hạt, sữa, pho mát, rau và các loại hạt..nên ít khi xảy ra tình trạng thiếu.
Khi thiếu nhiều Thiamin thì hài nhi bị bệnh phù beriberi; thiếu riboflavin mẹ hay ói mửa, con sanh thiếu tháng.
Sinh tố E: Nhu cầu bình thường là 8mg mỗi ngày. Khi mang thai, người mẹ cần tăng thêm khoảng 2 mg. Số lượng này đều có trong các loại thực phẩm như dầu thực vật olive, dầu bắp, các loại hạt…
Sinh tố B12 và folacin: Thiếu cả hai sinh tố này thì khối lượng máu của mẹ sẽ giảm với hậu quả kém dinh dưỡng, dưỡng khí và đưa tới sẩy thai, con nhẹ ký. Nếu chỉ thiếu folacin thì hài nhi bị tật nứt- đốt-sống (spina bifida), khuyết tật ống thần kinh (neural tube defect).
Nhu cầu folacin của người mẹ tăng gấp đôi bình thường hoặc hơn nữa, vào khoảng 400 mcg mỗi ngày. Số lượng này được cung cấp đầy đủ trong rau lá xanh, trái cây, ngũ cốc khô tăng cường, gan. Nếu nhiều folacin quá thì sự hấp thụ kẽm sẽ giảm.
Nhu cầu sinh tố B12 bình thường là 2 – 4mcg, khi có thai cần thêm khoảng 0.2mcg mỗi ngày. Sinh tố B12 có nhiều trong thực phẩm động vật, nên những người ăn chay cần bổ sung.
Sinh tố C: Nhu cầu sinh tố C bình thường là 60mg mỗi ngày. Khi mang thai, người mẹ cần thêm khoảng 10 mg. Chỉ cần uống một ly nước cam là có thể đáp ứng số lượng này.
Sinh tố C giúp thai nhi phát triển tốt xương và răng lợi tốt, tăng cường hấp thụ khoáng calci và sắt.
Sắt: Sắt là khoáng cần thiết cho việc tạo hồng huyết cầu.
Nhu cầu sắt lên cao nhất vào 3 tháng cuối của thai kỳ, khi thai nhi cần sắt để dự trữ cho khoảng 6 tháng sau khi sinh, vì sữa mẹ có rất ít sắt.
Thai nhi ít khi bị thiếu sắt vì có thể lấy ở người mẹ, nhưng cũng vì thế mà dễ bị thiếu sắt nếu mẹ không ăn đầy đủ và sẽ dẫn đến thiếu máu.
Nhu cầu bình thường là 15 mg, khi có thai người mẹ cần thêm 15 mg mỗi ngày. Nếu uống thêm viên sắt thì nên uống với nước chanh, vì chất acid ascorbic giúp ruột hấp thụ sắt tốt hơn.
Sắt có nhiều trong thịt đỏ, rau spinach, đậu phụ, trái cây khô, các loại hạt, bánh và ngũ cốc khô…
Kẽm: Nhu cầu kẽm mỗi ngày bình thường là 15mg. Khi mang thai, người mẹ cần tăng thêm khoảng 3 mg. Kẽm rất cần cho tế bào tăng trưởng. Thiếu khoáng này, con sẽ nhẹ ký, thần kinh kém phát triển.
Calcium và Phosphor: Nhu cầu calcium và phosphor đặc biệt quan trọng nhất vào ba tháng cuối của thai kỳ, vì thai nhi cần nhiều các khoáng này để tăng trưởng, tạo xương và răng. Trung bình chỉ trong một giờ thai nhi đã cần đến13 mg calcium.
Nhu cầu bình thường mỗi ngày là 1000 mg calcium và 800 mg phosphor. Người mẹ khi mang thai cần thêm mỗi loại 400 mg.
Sữa là nguồn cung cấp calcium tốt nhất. Ngoài ra calcium còn có trong rau súp lơ xanh, cá mòi đóng hộp ăn cả xương.
Iod: Nhu cầu iod bình thường mỗi ngày là 150 mcg; có thai cần thêm 25 mcg.
Trong trường hợp chế độ dinh dưỡng không cung cấp đủ nhu cầu iod, thai nhi sẽ rút iod từ cơ thể người mẹ. Do đó, thiếu iod sẽ ảnh hưởng trước hết đến người mẹ, nếu thiếu trầm trọng thì mẹ có thể bị bướu cổ (lớn tuyến giáp). Kích thích tố tuyến này giảm và đến lượt thai nhi bị ảnh hưởng. Ðứa con sinh ra có thể sẽ bị đần độn (cretinism) với thiểu năng tuyến giáp bẩm sinh, chậm phát triển trí tuệ, da và nét mặt thô, xương thiếu khoáng chất và cơ thể lùn thấp. Những đứa trẻ này cần phải uống kích thích tố tuyến giáp suốt đời.
Dùng muối có cho thêm iod và hải sản đều có thể giúp tránh được sự thiếu hụt khoáng chất này.
Kết luận
Từ năm 1972, nhà dinh dưỡng uy tín của Gia Nã Ðại, Agnes C. Higgins, có kết luận: “Các nghiên cứu về dinh dưỡng tiền sanh từ năm 1941 đều chứng minh ích lợi của chế độ dinh dưỡng đầy đủ đối với tử vong, bệnh hoạn của bà mẹ và thai nhi cũng như rủi ro gây ra do suy dinh dưỡng”.
Cũng theo tác giả này, “Nguồn gốc của đa số bệnh hoạn về tinh thần, vận động và cảm giác xảy ra trong ba tháng cuối của thai kỳ đều có thể phòng tránh được bằng cải thiện chăm sóc tiền sanh với nhấn mạnh vào sự ăn uống”.
Nhận xét này hiện nay vẫn còn đúng và được mọi người trong ngoài y giới áp dụng.
NYÐ