Menu Close

Ấn tượng… Saigon (kỳ 2)

Bài 2

Ðể nhớ Huỳnh Hữu Cầu, Vĩnh Cảnh, Ðặng Ngọc Hồ,

Bửu Thụ, Tôn Thất Cẩn… những bạn bè, kẻ còn, người mất!

Âm thanh của Saigon

Ở Saigon, ngày cũng như đêm, không lúc nào là chúng ta không nghe tiếng nổ giòn giã của những chiếc “xích lô máy,” tiếng xe lam chở khách đang chạy trên đường, lúc nào cũng có thể gọi là giờ cao điểm, tấp nập trên đường phố và muôn vàn tiếng còi xe nhấn liên tục để giành đường. Nhưng Saigon từ những buổi sáng tinh mơ, từ những vùng ngoại ô chúng ta cũng có thể nghe được tiếng vó ngựa gõ trên đường nhựa của những chuyến xe ngựa (thổ mộ) chở hoa quả hay những gánh hoa tươi vào trung tâm Saigon. Và trong buổi chiều chập choạng tối, tiếng chim nghe rộn rã, xao xác lúc về tổ trong những vòm cây xanh, cao ở trên đường Hồng Thập Tự hay nơi “Vườn Ông Thượng,” còn được gọi là “Vườn Bờ Rô”( từ chữ Jardin des beaux jeux) hay sau này bỏ chữ Tây, chúng ta gọi là “Vườn Tao Ðàn!”

Lắng sâu vào đêm, sau những âm thanh của đường phố, lời rao của những con hẻm, những ngóc ngách, chồng chất lên nhau ba lần con số, là những tiếng rao hàng khi lanh lảnh, khi ngọt ngào nghe từ giọng rao và cả vị ngọt từ món hàng được rao: “Ai ăn bột khoai… đậu xanh… bún tàu… nước dừa… đường cát hôn!” Ðã sống ở Saigon ai cũng đã nghe qua âm thanh loảng xoảng của chùm kim loại va vào nhau thay lời rao của một anh “tẩm quất” mù, hay tiếng lóc cóc của hai thanh gỗ gõ vào nhau của một xe mì leo lét ánh đèn vào buổi khuya, tối, mà một lần chúng ta đã nghe qua trong phim Kiếp Hoa do nữ tài tử Kim Chung đóng vai chính. 

an-tuong-ve-saigon1
Bến xe buýt Công Quản Sài Gòn xưa

“Ðèn Saigon ngọn xanh ngọn đỏ…” Cũng lần đầu tiên trong đời từ một thành phố nhỏ, tôi biết thế nào là ngọn đèn giao thông ở mỗi đầu đường, chớp đổi từ xanh sang vàng rồi đỏ. Mỗi đêm khuya, khi xe cộ đã thưa thớt, đèn trở sang màu vàng, chớp tắt liên hồi. Ở Huế những ngày ấy, phía hai đầu cầu Trường Tiền đã có đèn xanh đèn đỏ, nhưng được một cảnh sát viên đứng ngay đó điều khiển bằng cách bật công-tắc để thay đổi màu đèn.

Taxi Saigon là một hình ảnh đặc biệt. Chỉ có Saigon mới có loại xe taxi Renault 4CV (4 ngựa) sơn hai màu xanh trắng. Những chiếc xe so trông còn nhỏ hơn là những chiếc xe mini thời nay. Một lần lên xe, tài xế bẻ cần hộp số là đã $6.00. Xe chỉ chở được ba người, nhưng phần lớn tài xế taxi cũng “thông cảm” cho chúng tôi, tuổi học sinh, khi đứa thứ tư ngồi tụt xuống ở ghế sau để cảnh sát khỏi trông thấy.

an-tuong-ve-saigon
Xe lam thuở trước

Chúng tôi còn nhớ đến những chiếc xe Huê Kỳ Plymouth cổ lỗ đậu dài dài trên đường Nguyễn Huệ cạnh những kiosque bán hoa để cho khách thuê đi đám cưới. Saigon còn có những chiếc xe Traction 15 Citroen màu đen chuyên chở khách Saigon –Cholon với chú lơ xe luôn gào: “Chú Hai! Dì Ba! Chợ Lớn, Chợ Lớn đây!”

Có lẽ trên trái đất này chưa có một thứ tiền tệ nào mà dân chúng có quyền xé đôi tờ bạc một đồng để thành hai tờ, mỗi tờ 50 xu cho tiện việc trao đổi mua bán, trong khi đồng kẽm 50 xu không đủ để lưu hành. Ðây là một trong những cái tuỳ tiện, đơn giản mà dễ thương của xứ Nam Kỳ trước hiệp định Geneve 1954. Không có một văn bản nào của Bộ Tài Chánh quy định, ngăn cấm hay đồng ý cho việc xé đôi tờ bạc. Sau đó đất nước cũng bị xé đôi, hơn một triệu người miền Bắc di cư vào Nam. Bộ mặt của Saigon chắc hẳn có thay đổi, kể cả nền văn hoá, chuyện ăn uống. Ðây là lúc món Phở Bắc du nhập vào Saigon mạnh mẽ, đánh bạt hủ tiếu Nam Vang vốn là một món ăn quen thuộc của Saigon.

Tôi không nhớ nhiều đến những quán cà phê sang trọng của Saigon mà nhớ mãi những quán cà phê, khách ngồi co giò trên chiếc ghế đẩu, bình cà phê trên bếp lửa của những buổi sáng tinh sương đốt  bằng những thanh củi. Và cũng lần đầu tiên tôi nghe và biết thế nào là món “cà phê dĩa!”

Một chuyện mới lạ nữa đối với tôi là hai rạp chiếu bóng thường trực (mà chúng tôi hay gọi là ciné permanente) rạp Bonard trên đường Bonard trước cửa chợ Bến Thành gần bệnh viện Saigon, sau ngày Bonard đổi thành đường Lê Lợi thì rạp hát đổi thành Vĩnh Lợi để khỏi trùng tên với rạp Lê Lợi, cũng chiếu thường trực trên đường Lê Thánh Tôn sau lưng chợ Bến Thành.

an-tuong-ve-saigon4
Thập niên 1950, xe thổ mộ được vào thành phố.

A! Thì ra đây là một cái rạp hát chiếu một phim liên tục từ 9 giờ sáng cho đến 12 giờ đêm, mua vé vào lúc nào cũng được ở chết trong đó hay coi nửa phim bỏ ra cũng chẳng sao. Nên thường là chúng ta coi đoạn kết trước đoạn mở đầu, y như thời xưa giở cuốn tiểu thuyết, nóng lòng xem đoạn kết trước để xem hai nhân vật cuối cùng có lấy nhau không?

Vào thời đó, những năm đầu thập niên 50, phần lớn phim chiếu là những cuốn phim đen trắng, cũ khoảng một hai năm, nhưng là những cuốn phim nổi tiếng như “La valse dans l’hombre” (Waterloo Bridge) do Vivien Leigh và Robert Taylor đóng vai chính hay coi “Tant qu’il y aura des hommes” (From Here to Eternity) để nghe Montgomerey Clift thổi kèn truy điệu. Những phim này chúng tôi xem đi xem lại cả chục lần!

“Cinema permanent” là nơi cho những cặp tình nhân hẹn hò hay cho tụi học sinh trốn học, trong rạp không thiếu những cô cậu, áo dài hay sơ mi trắng tay ôm cặp. Ở rạp Bonard lại là nơi cho những cặp đồng tính gặp gỡ trong bóng tối đồng loã của rạp hát, và đã có người bị sờ soạng bất ngờ.

Có một điều gây ấn tượng lâu đời cho tôi, là ở rạp Vĩnh Lợi, sau năm 1954, người ngồi bán vé ở guichet là một thiếu phụ đặc biệt luôn luôn mặc áo dài đen và quấn ruban đen mà tôi có cảm tưởng như là một người quả phụ đang để tang chồng. Năm, bảy năm sau, khi tôi bước vào đời, đi nhiều nơi, một ngày trở lại Saigon, tôi vẫn thấy người đàn bà ấy ngồi sau ô cửa bán vé. Cuộc sống ở đây hình như không có gì thay đổi, sao dời và vật chẳng hề đổi.

Về thời tiết, Huế có những mùa mưa ba bốn ngày không dứt “Trời mưa ở Huế sao buồn thế! Cứ kéo dài ra đến mấy ngày.. (Nguyễn Bính) nhưng trời Saigon thì “chợt mưa chợt nắng,” nên có những lần “đụt mưa” chớp nhoáng và mưa tạnh, trời hửng nắng. Trong khi thế giới có bốn mùa thì Saigon chỉ có hai mùa Mưa và Nắng.

Và cũng nhờ khí hậu Saigon quanh năm ấm áp, nên kẻ không nhà có thể ngủ trên hè phố, bến xe quanh năm. Trời thì lúc nào cũng đầy sao, tiếng động thân quen không bao giờ dứt.

an-tuong-ve-saigon3
Rạp chớp bóng Lê Lợi

 Saigon là một nước khác!

Ngày mới vào Saigon, tôi có đến thăm một  ông bác lấy vợ Saigon, khi ông bỏ xứ đến đây làm ăn từ hơn hai mươi lăm năm trước. Bà bác giới thiệu tôi với mấy bà hàng xóm đến chơi:

– “Ðây là thằng cháu ổng ngoài “nước Huế” vô thăm!”

Thì ra tôi là dân “nước Huế” mà trong này là xứ Ziệc-Nam, hai nước có phong tục, văn hoá khác nhau. Người ta nói Tây nó chia để trị. Lớn lên tôi không tin lập luận này, chẳng qua mỗi nơi có một chính thể khác nhau. Nam Kỳ là thuộc địa, nằm dưới sự cai trị trực tiếp của Pháp và dưới quyền Thống đốc Nam Kỳ người Pháp. Trung Kỳ là xứ của triều đình nhà Nguyễn chịu sự kiểm soát bảo hộ của Khâm sứ Trung Kỳ. Hai chính phủ Nam, Trung này không có quyền hành gì đối với nhau. Vả lại, hồi xưa việc đi lại xa xôi, khó khăn, ai ở nhà nấy nên ít biết đến nhau. Ở Saigon đi Phnom Penh còn gần hơn đi Huế, thì hỏi sao người ta không nghĩ Huế là một nước khác.

Cái văn hoá “cơm hàng cháo chợ” như khay phá lấu, xe nước mía và dĩa cơm tấm đã gây ngạc nhiên cho một thiếu niên “nước Huế” mới vô Saigon đã đành, hôm giỗ ông bác, tôi mới “thất kinh rụng rời” khi thấy trên bàn thờ chỉ độc bày một nồi ca-ri gà và mấy khúc bánh mì cùng với hai chai bia “Con Cọp.” Nếu bữa kỵ này tổ chức ngoài “nước Huế” thì trên bàn thờ sẽ có 15 món, mỗi món bày trong những cái dĩa hay cái cái tô nhỏ xíu, lúc ăn phải rón rén, nếu gắp mạnh tay hai lần là hết dĩa. Ðó chính là sự khác biệt văn hoá, và tôi thấy bắt đầu thích Saigon với phong cách “ăn gì cúng nấy,” “nghĩ sao nói vậy,” chứ không kiểu đãi bôi, đò đưa, “mời mà lạy Trời đừng ăn” như người xứ ngoài. Saigon quả là một nước khác!

an-tuong-ve-saigon2
Nữ sinh Sài Gòn ngày trước

Hồi học lớp Ba, tôi đã biết đến bài tập đọc  “Saigon” hay “Hòn Ngọc Viễn Ðông” trong cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư, và không ngờ có ngày được bước chân tới xứ này.

Tôi chỉ sống ở Huế 17 năm nhưng 30 năm với Saigon, vì đã phải trừ đi 7 năm xa Saigon đi Bắc.

Tôi nghĩ Saigon bao giờ cũng là nỗi mơ ước của cả nước. Bạn bè tôi ngày đó ai cũng muốn đi và sống ở Saigon. Huế của tôi với mưa lụt, đói nghèo, dân tình khó khăn, lòng người ít cởi mở, nhưng sự chịu đựng vốn đã quen, nên thường ít ai muốn bỏ xứ mà đi.

Quả là Saigon đã để lại trong lòng tôi những ấn tượng khó quên, và chắc hẳn cuộc đời tôi đã thay đổi với mưa nắng Saigon.

Sau những ngày ở Saigon trở về, có lần cha tôi đã nói với tôi: “Tao thấy mi thay đổi quá nhiều!”

Trong bao nhiêu năm nay, tôi vẫn hy vọng Saigon không thay đổi, để ngày trở về tôi có thể thấy lại những góc phố, con đường xưa.

HP