Khi Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ mới thành lập vào năm 1783 chỉ có 13 tiểu bang. Từ 13 tiểu bang đầu tiên nhỏ bé ấy nước Mỹ đã mở rộng bờ cõi về phía Tây, từ bờ biển Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương. Như câu hát America the Beautiful – Nước Mỹ tươi đẹp: From sea to shining sea – Từ biển này đến biển kia sáng ngời. Từ 13 ngôi sao trở thành 50 ngôi sao lấp lánh tự hào trên quốc kỳ, nước Mỹ đã trải qua bao thăng trầm, đổ bao xương máu và đấu tranh không ngừng. Nhân ngày Lễ Độc lập July 4 sắp đến, Trẻ giới thiệu đến quý độc giả loạt bài Mở mang bờ cõi, ghi lại một thời oanh liệt trong lịch sử Hoa Kỳ.
Phần 2
Cách mạng Texas
Từ một lá cờ vẽ tay có 1 ngôi sao cô độc, từ chuyện tranh giành một khẩu cà nông nhỏ đã khởi đầu chiến tranh làm nên một đất nước Cộng Hòa Texas. Rồi cũng đất nước đó chọn lựa đứng vào liên bang, làm thay đổi diện mạo nước Mỹ.
Sau khi Mỹ mua được Florida từ chính quyền thực dân Tây Ban Nha năm 1819, biên giới của Mỹ và Mễ Tây Cơ ở Tây-Nam là con sông Sabine. (Giờ là ranh giới giữa Texas–Louisiana). Bên kia phần đất gọi là Texas ngày nay thì chính quyền Tây Ban Nha gọi là Coahuila y Tejas (Coahuila và Texas), đó là một miền đất mênh mông hoang dã, người da đỏ thường xuyên đánh phá, nên chính quyền khuyến khích người dân định cư. Nhiều người Mễ đã du nhập từ phía Nam và cả một số người Mỹ trắng nương theo dịp này để di cư về phía Tây, trong đó có Moses Austin nguyên quán ở Missouri. Vào năm 1820 Moses Austin, đã xin phép chính quyền Tây Ban Nha cấp một vùng đất đai cho di dân mới ở Texas. Vùng đất được cho phép nhưng Moses Austin mất, con của ông là Stephen Austin kế tục công việc, sau đó dắt 300 gia đình đến Brazos River.

Không lâu sau dân số những người Mễ sống ở Texas gia tăng, gọi họ là Texians, (Texan-Mexican. Người Mễ ở Texas để phân biệt với người Mễ Tây Cơ). Họ đã làm cuộc nổi dậy giành độc lập từ chính quốc. Thời gian ấy tướng Antonio Lopez de Santa Anna đã lừng danh như Napoleon của Nam Mỹ đã khống chế hầu hết các vùng đất Mễ Tây Cơ ngoại trừ Texas. Các luật lệ và chính sách bất công dẫn đến bạo động và chống đối khắp nơi, phe chống đối dồn về trú ở Texas. Ðể dễ kiểm soát, tướng Santa Ana dời thủ đô của Texas từ San Antonio về Saltillo, một thành phố trong bang kế cận. Sự việc dời đô này tạo ra tranh chấp và sự phức tạp trong di trú cùng quyền lợi…
Một nhóm đại biểu của cư dân Texas đã đề cử Stephen Austin, con của Moses Austin đề xuất tách Texas ra riêng. Tất nhiên là gặp phải chống đối của Tổng thống Santa Ana mới đắc cử. Stephen Austin trở về Texas tiếp tục vận động đấu tranh và sau đó bị bắt giam một năm rưỡi tại Mễ Tây Cơ với tội phản quốc. Trong khi ấy thì số di dân đến Texas từ Mễ và Mỹ ngày càng đông làm cho Santa Ana nghi rằng âm mưu của Mỹ để chiếm lấy Texas. Căng thẳng giữa chính quyền Mễ Tây Cơ và cư dân Texas gia tăng và bắt đầu bằng trận đánh ở Gonzales, cách San Antonio 50 dặm, mở màn cho cuộc cách mạng giành độc lập cho nước Cộng Hòa Texas.

Cách đó 4 năm, chính quyền Tây Ban Nha đã cung cấp cho những người định cư ở Texas 1 khẩu súng cà nông nhỏ 3kg nhằm đối phó với thổ dân da đỏ Comanche. Khi quân đội Mễ đem 100 kỵ binh đến lấy lại súng cà nông thì những người lính Mễ ủng hộ sự độc lập ở đó đã chống lại. Bên bờ sông Guadalupe nước lũ, 18 binh sĩ Texians đứng đợi và cản trở 100 kỵ binh Mễ Tây Cơ. Họ bảo cấp chỉ huy chưa có ở trại và cố tình kéo dài thời gian. Qua ngày hôm sau thì 140 tay súng mặc áo rách, đội mũ lông thú, quàng khăn cổ, những người Texians tình nguyện đã đến hỗ trợ, họ vượt sông, lợi dụng sương mù dày đặc, giương lá cờ có hình một ngôi sao với hàng chữ “Tới đây mà lấy” (Come and Take It) phía dưới vẽ khẩu súng cà nông đầy thách thức. Lá cờ ấy được xé ra từ mảnh áo cưới của Naomi DeWitt, con gái của vị nhóm trưởng. Mờ sáng ngày 2, tháng 10 những người Texians đã nhồi sắt vụn, dây xích vào khẩu cà nông nhỏ và khai hỏa. Castañeda người chỉ huy quân đội Mễ Tây Cơ ra lệnh không bắn trả lại những người dân cùng huyết thống và ngôn ngữ. Một người lính Mễ bị giết. Ðể tránh đổ máu, Castañeda ra lệnh rút quân, sau khi cảnh cáo đến hậu quả chiến tranh cho việc giữ khẩu súng cà nông này. Hai ngày sau, Stephen Austin tuyên bố gây chiến với Mễ Tây Cơ. Những người Texas tự nguyện gia nhập ngày càng đông. Ngày 10 tháng 10 với 300 chiến sĩ, Stephen Austin được bầu làm thủ lãnh quân đội Texas, dưới trướng là tướng Sam Houston.
Gần 6 tháng sau, tháng 2 năm 1836 thì những người lính tình nguyện ở Texas đã đánh quân Mễ ra khỏi San Antonio sau đó định cư quanh nhà thờ cổ Alamo. William Travis thủ thành cùng 150 dân quân Texians, trong đó có các người hùng nổi tiếng như Davy Crockett và James Bowie. Tướng Santa Anna mang 3,000 quân sĩ thiện chiến quyết san bằng thành cổ. Những lá thư cầu viện của Travis chỉ kéo thêm được chừng 100 người. Vậy mà họ tử thủ và chống trả suốt 2 tuần lễ cho đến viên đạn cuối cùng. Những người Texians ở Alamo đã nằm xuống mang theo hào khí ngất trời. Khi những khói bụi của trận Alamo còn chưa lắng thì 3 tuần sau, Santa Anna bất ngờ mang 1,400 lính tinh nhuệ tấn công và tàn sát đồn Defiance ở Goliad, giết chết tất cả binh lính cùng 350 tù nhân. Vụ thảm sát Goliad này đã làm chấn động và bùng lên ngọn lửa phẫn nộ của những cư dân ở Texas. Tướng Samuel Houston biết rằng không thể đánh trực diện với đội quân hùng hậu của Santa Anna, bèn ra lệnh rút lui về gần biên giới Mỹ, quân Santa Anna truy đuổi theo. Ngày 20 tháng 4, 1836 cả hai bên gặp nhau ở sông San Jacinto, chia cắt giữa 2 bên là một ngọn đồi với cỏ cao rậm. Các Texians phục kích và chờ đón. Quân lính Santa Anna thì mệt mỏi vì truy đuổi và được lệnh nghỉ ngơi, tin rằng với lực lượng 1,500 quân số thì kẻ thù ắt chùng lòng. Không ngờ chiều hôm ấy tướng Samuel Houston cùng 800 dân quân Texians dũng mãnh lao vào tấn công, miệng hô vang: Hãy nhớ Alamo! Hãy nhớ Goliad!

Do lực lượng Santa Anna tuy đông nhưng trải dài, phe Texians với lòng căm thù quyết sống chết và địa hình thuận lợi, 18 phút sau khi nổ súng Santa Anna bị bắt sống và toàn bộ quân Santa Anna thảm bại, chỉ có 9 người Texans chết.
Ba tuần sau Santa Anna được thả về Mexico City sau khi chấp nhận ký hòa ước ở Velasco, Texas, công nhận chủ quyền và nền độc lập của Texas.
Thủ đô của Cộng Hòa Texas là San Antonio, lần lượt là Columbia (Tây Texas), Houston và cuối cùng là Austin năm 1839. Các Tổng Thống như David Burnet, Sam Houston, Mirabeau B. Lamar và Anson Jones, tên tuổi của họ sau này được đặt cho các thành phố và tên đường. Cộng Hòa Texas tồn tại 9 năm từ 1836 đến 1845. Quốc gia này đã tuyên bố chủ quyền trên một vùng đất rộng bao gồm tất cả tiểu bang Texas ngày nay cùng một phần của các tiểu bang New Mexico, Oklahoma, Kansas, Colorado, và Wyoming. Dân số nước này có số đông là người gốc Mỹ, nên họ muốn sát nhập vào Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Vào lúc ấy Cộng Hòa Texas ủng hộ chế độ nô lệ của miền Nam, nên việc sát nhập bị kéo dài trong thập kỷ. Mãi đến năm 1845, Texas mới trở thành tiểu bang thứ 28 của Mỹ. Sự việc này làm gia tăng căng thẳng và dẫn đến chiến tranh Mỹ – Mễ.
Quan hệ ngoại giao giữa Mỹ và Mễ bị cắt đứt. Với người Mễ, biên giới của 2 nước là chỉ đến con sông Nueces. Người Mỹ thì cho là tới sông Rio Grande (biên giới thật sự ngày nay). Tháng Giêng 1846 tướng Taylor dẫn 4,000 quân đến sông Rio Grande nhưng ra lệnh không tấn công, tuần tra dọc bờ sông và chỉ phản công nếu người Mễ gây chiến. Tháng 4, 1846 một nhóm 70 kỵ binh Mỹ chạm súng với 2 ngàn quân Mễ cắm trại ở gần Brownsville. Sau vài giờ nổ súng, 16 kỵ binh Mỹ bị giết, 5 người bị thương, 50 người bị bắt làm tù binh. Lập tức Tổng thống Mỹ James Polk cùng quốc hội tuyên chiến với Mễ Tây Cơ vào ngày 13 tháng 5, 1846. Sau những trận thắng của quân Mỹ ở Texas, đến tháng 2, năm 1847 phe Mễ Tây Cơ thua trận nhưng chống trả mãnh liệt, quyết không nhượng bộ. Tướng Taylor quyết định tấn công vào lãnh thổ của Mễ Tây Cơ. Quân Mỹ đưa một đội quân theo đường biển đổ bộ vào cảng VeraCruz, từ đó quân thiện chiến của Mỹ đã đánh sâu vào thủ đô Mễ Tây Cơ.
Cùng thời gian đó, cư dân ở California vẫn còn thuộc về Cộng Hòa Mễ Tây Cơ, họ không hài lòng với chính quyền, bắt đầu nổi dậy và muốn chính phủ Mỹ trợ giúp giành tự trị như Texas. Mỹ đem vài chiến hạm đến biển Thái Bình Dương và Ðại tá John C. Frémont được gởi đến trợ giúp. Ở New Mexico thì các đoàn thám hiểm cùng quân Mỹ đánh chiếm Santa Fe một cách dễ dàng từ đó kéo về trợ giúp California. Dù tổn thất ở cả 2 phía nhưng người Mễ Tây Cơ biết rằng không thể đánh lại Mỹ sau những thất bại liên tiếp, ngân khố lại trống rỗng. Hiệp ước Guadalupe Hidalgo được ký vào ngày 2 tháng 2, 1848 chấm dứt 2 năm chiến tranh Mỹ – Mễ.
Người Mễ giao các phần đất thuộc California, Nevada, Utah, Colorado và Wyoming cho Mỹ. Phía Mỹ rút hết quân khỏi Mễ Tây Cơ và trả 18 triệu 250 ngàn đô la cho các nhượng địa này. Khi các phái đoàn Mỹ, Mễ đến tiến hành định mức biên giới thì vẫn còn vài xung đột. Tổng thống Mỹ đã cử James Gadsden đến Mễ Tây Cơ đàm phán. Kết quả là ngày 30 tháng 12, 1853 Mexico mới đồng ý cho sáp nhập El Paso vào lãnh thổ Mỹ đồng thời bổ sung thêm các vùng phía Nam của Azirona và New Mexico. Ðổi lại, Mỹ trả cho Mexico thêm 10 triệu đô la. Hiệp ước Gadsden này đã giải quyết dứt điểm những tranh chấp lãnh thổ giữa Mỹ và Mễ.
Texas có nguồn gốc từ “Teysha” nghĩa là “Chào bạn” trong ngôn ngữ bộ tộc da đỏ Caddo. Cư dân Texas chọn motto “Hữu Nghị” cho tiểu bang của mình, như nét đặc trưng đầy tự hào về sự thân thiện. Texas là tiểu bang lớn nhất nước Mỹ cho đến khi người Mỹ mua lại Alaska vào những năm sau để hoàn tất việc mở mang bờ cõi của mình.
Kỳ tới
Thương vụ Alaska