Hôm Thứ Năm tuần qua, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đáp chuyến bay từ Bắc Kinh tới Hồng Kông trong chuyến viếng thăm ba ngày nhân dịp mừng kỷ niệm 20 năm ngày Hồng Kông được Anh Quốc trao trả lại cho Trung Quốc. Đây cũng là chuyến viếng thăm đầu tiên của họ Tập đến hòn đảo này trong cương vị là chủ tịch của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa.

Riêng đối với nhiều người dân Hồng Kông thì sự kiện này không có gì để đáng ăn mừng cả, vì theo họ, những gì mà chính quyền trung ương Bắc Kinh hứa 20 năm trước là sẽ để cho người dân Hồng Kông tiếp tục được hưởng một thể chế dân chủ thì nay đã bị lấy mất đi, và những giá trị căn bản mà người dân Hồng Kông vẫn luôn tôn trọng cũng đang dần bị xói mòn trong những năm gần đây.
Năm 2014, hàng trăm ngàn người, đa số là những người trẻ, đã xuống đường biểu tình trong nhiều tuần lễ đòi hỏi một thể chế dân chủ hơn. Cuộc xuống đường đông đảo này đã được gọi với cái tên là “cuộc cách mạng dù”. Khi những đòi hỏi của người biểu tình bị chính quyền trung ương Bắc Kinh bác bỏ và cuộc xuống đường tranh đấu tan rã, nhiều người trẻ trong số những người xuống đường vẫn không nản chí mà còn dấn thân hơn nữa, họ tham gia vào chính trường của Hồng Kông. Nổi bật nhất có Nathan Law (La Quan Thông), 23 tuổi, năm ngoái được bầu vào hội đồng lập pháp (Legislative Council) và trở thành nhân vật trẻ tuổi nhất trong lịch sử của hội đồng này. Một số người trẻ tranh đấu khác, điển hình có Joshua Wong (Hoàng Chi Phong), cho rằng Hồng Kông sẽ tốt đẹp hơn nếu được đứng riêng độc lập với lục địa.

Tuy nhiên vào hôm Thứ Sáu, một cuộc diễn binh rầm rộ, được cho là lớn nhất tại Hồng Kông từ trước tới nay, với sự tham gia của hơn 3,000 binh sĩ thuộc lực lượng Quân đội Giải phóng Nhân dân hiện đang đồn trú tại đây, và sau đó là những bài diễn văn của họ Tập nhấn mạnh đến tầm quan trọng về chủ quyền và an ninh quốc gia – là những thông điệp quá rõ mà Bắc Kinh nhắn gửi đến người dân Hồng Kông rằng họ không có chọn lựa nào khác ngoài việc phải chấp nhận một thực tế rằng Hồng Kông là một phần lãnh thổ của Trung Quốc được đặt dưới quyền cai trị của đảng cộng sản.
Ðế quốc Anh chiếm giữ đảo Hồng Kông lần đầu vào năm 1842 sau khi đánh bại Trung Hoa trong chiến tranh nha phiến lần thứ nhất. Sau chiến tranh nha phiến lần thứ hai, chính quyền nhà Thanh ở Bắc Kinh bị buộc phải nhượng thêm khu vực Cửu Long (Kowloon) năm 1860, đây là vùng đất dính liền với lục địa và nằm đối diện với hòn đảo.
Năm 1898, để thực hiện việc nắm quyền kiểm soát chặt chẽ hơn toàn khu vực, Anh Quốc đã ký hợp đồng thuê mướn thêm đất với lời hứa là sẽ trao trả lại cho Trung Hoa trong vòng 99 năm.

Dưới sự cai trị của Anh, Hồng Kông đã phát triển nhanh chóng và trở thành một trong những trung tâm thương mại và tài chánh quan trọng nhất trên thế giới.
Ðến năm 1982, một tiến trình đàm phán gay go giữa London và Bắc Kinh được khởi động để chuẩn bị cho việc trao trả Hồng Kông lại cho Trung Quốc theo như hợp đồng được ký kết năm 1898.
Hồng Kông được chính thức trao trả vào ngày 1 Tháng 7 năm 1997 trong một buổi lễ long trọng với sự hiện diện của Thái tử Charles, Thủ tướng Tony Blair và Chủ tịch Giang Trạch Dân lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, trong suốt gần một thế kỷ dưới quyền cai quản của Anh Quốc, Hồng Kông đã phát triển và hình thành dưới một thể chế kinh tế và chính trị hoàn toàn khác biệt với Trung Hoa lục địa, là vùng đất bị đặt dưới quyền cai trị của một đảng cộng sản Trung Quốc.
Ðể tạm thời giải quyết sự khác biệt này, chính quyền Trung Quốc đồng ý để Hồng Kông được quyền bán tự trị trên nguyên tắc “nhất quốc lưỡng chế” (một quốc gia, hai chế độ – one country, two systems) – nghĩa là Hồng Kông được hưởng nhiều quyền tự do hơn của một lãnh thổ tự trị, ngoại trừ ngoại giao và quốc phòng được đặt dưới quyền kiểm soát của Bắc Kinh, trong vòng 50 năm tới.

Ðó là lý do vì sao Hồng Kông trở thành một đặc khu hành chánh với hệ thống luật pháp riêng, nhiều đảng chính trị được quyền tham chính, và quyền tự do lập hội và phát biểu. Lãnh thổ Hồng Kông còn có một hiến pháp riêng, được gọi là bản Hiến pháp Cơ bản (Basic Law) để bảo vệ những quyền tự do căn bản này của người dân, với mục đích tối hậu là tự bầu ra một người lãnh đạo cho toàn khu vực, được gọi là chức trưởng quan (chief executive) bằng phổ thông đầu phiếu theo đúng thủ tục của một thể chế dân chủ.
Tuy nhiên, ngay từ lúc đầu, chức trưởng quan là do một hội đồng bầu cử gồm 1,200 thành viên bầu ra dưới sự giám sát của chính quyền trung ương. Ða số các thành viên của hội đồng này được cho là có khuynh hướng thân Bắc Kinh. Trong khi hội đồng lập pháp với một nửa là do người dân bầu và một nửa kia là được chọn ra từ những nhóm chuyên gia và đặc quyền. Những nhà tranh đấu dân chủ cho rằng thể thức bầu cử này cho phép Bắc Kinh có khả năng thanh lọc bất cứ ứng cử viên nào mà họ không ưa.
Trong nhiều năm, các nhà tranh đấu vẫn bền bỉ vận động để người dân Hồng Kông được quyền bầu chọn người lãnh đạo của họ. Năm 2014, chính quyền Bắc Kinh lên tiếng cho biết họ chấp nhận bầu cử tự do để chọn vị trưởng quan, nhưng với điều kiện là chỉ lấy trong danh sách đã được Bắc Kinh duyệt và chấp thuận trước.

Việc này đã đưa đến cuộc biểu tình rầm rộ quy tụ hơn nửa triệu người để nói lên ước vọng của người dân Hồng Kông là mong muốn được sống dưới một thể chế hoàn toàn dân chủ. Cuộc biểu tình đã gây ra tình trạng tê liệt cho toàn khu vực trung tâm của thành phố trong nhiều tuần lễ. Sau biểu tình, chính quyền trung ương đã rút lại lời hứa và quyền “bầu cử tự do” theo kiểu Bắc Kinh cũng bị dẹp luôn.
Hiện nay không ai có thể đoán được tương lai của Hồng Kông cho đến năm 2047, tức đúng 50 năm sau ngày trao trả, sẽ như thế nào. Hồng Kông có còn tiếp tục được hưởng một số quyền tự do và bán tự trị như hiện nay theo bản Hiến pháp Cơ bản hay rồi đây sẽ bị tước hết những quyền này và trở thành một tỉnh như tất cả những tỉnh khác ở Trung Quốc?
Một điều rõ ràng là càng ngày càng có nhiều người trẻ, kể cả thế hệ những người trẻ được sinh ra sau ngày trao trả, tìm cách xa lánh vì không tin tưởng thực tâm của chính quyền trung ương.
Một cuộc thăm dò của Ðại học Hồng Kông mới đây nhất cho thấy chỉ có 3 phần trăm những người từ 18 đến 29 tuổi xem họ là người Trung Quốc (số còn lại chỉ nhận họ là người Hồng Kông).
Trong khi đó, ý tưởng ban đầu của Trung Quốc dùng Hồng Kông như một mô hình để sau này thực hiện ý đồ “tái thống nhất” đảo quốc Ðài Loan dường như cũng đã vuột khỏi tầm với, và càng ngày càng không hấp dẫn đối với hầu hết người dân Ðài Loan.
Càng ngày người dân Hồng Kông càng cảm thấy dường như cuộc sống của họ đang bị thay đổi và thay vào đó là những ảnh hưởng từ phía đại lục. Tiếng quan thoại ngày càng được sử dụng nhiều hơn tại các cơ sở hành chánh của chính quyền nơi mà ngôn ngữ chính của người dân Hồng Kông sử dụng là tiếng Quảng Ðông; các biểu ngữ với lời lẽ tuyên truyền kiểu cộng sản xuất hiện nhiều hơn; những quảng cáo ra sức quảng bá rầm rộ khắp nơi về kế hoạch “nhất đái nhất lộ” (một vành đai, một con đường – One Belt, One Road) – một sáng kiến kinh tế và chính trị của Bắc Kinh – mà người dân Hồng Kông nghe riết rồi cũng phải ngán ngẫm; và nhất là sự hiện diện của các binh lính thuộc lực lượng Quân đội Giải phóng Nhân dân trong thành phố này như một sự răn đe trực tiếp.
Có thể nói người dân Hồng Kông đang sống trong tình trạng bị giằng co giữa hai ý thức hệ tự do và độc tài, và điều họ lo sợ nhất là những gì bị lấy mất đi sẽ khó mà có thể lấy lại được.
VH