Gần đây nhà văn Huyền Chiêu có gởi cho một tài liệu đăng trên Văn Việt về việc VC phá hoại tuyến đường sắt răng cưa Tháp Chàm-Đà Lạt khiến Nguyễn bâng khuâng nhớ lại những lần mình đã đi trên tuyến đường này và nhớ sân ga phố núi ngày nào. Hôm nay nhân buổi nhàn cư bèn ghi lại những đoạn văn mình đã viết. Thêm vào đó, ở phần II là những đoạn văn của các nhà văn khác viết.
Tìm dấu tích một nhà ga xưa
Xin nói ngay đây là vang và bóng của nhà ga Ðà Lạt -mà kẻ này trong một phút lộng ngôn đã nói là nhà ga đẹp nhất nước và có khi đẹp nhất thế giới! Nhưng quả thật tôi thấy nhà ga ở phố núi ấy quá đẹp. Và người nữa cũng đồng ý với tôi.

Tôi đặt chân lên sân ga Ðà Lạt hồi còn trẻ. Thuở ấy, cuối những năm 50, tôi đang dạy ở trường Lê Ngọc Hân và Nguyễn Ðình Chiểu Mỹ Tho. Hè tan trường, chia tay thầy trò lòng còn ngơ ngẩn thì được sự vụ lệnh đi dự hội đồng thi ở Ðà Lạt. Từ Mỹ Tho đáp ô-tô-ray lên Sài Gòn, rồi đi xe lửa đến Tour Chàm, và từ đó đổi tàu ngược lên Ðà Lạt. Chuyến đi này tình cờ gặp bà chị Phạm Bá Ngọc Hường, cùng học ở Quốc Học Huế, trên tôi một hai lớp. Trên wagon restaurant, ngồi uống nước, chúng tôi nhắc tên những người bạn chung – Hoàng Nguyên, Lữ Hồ, Phạm Mạnh Cương, Ðỗ Kim Bảng, Tạ Ký, Hồ Ðăng Tín… và những người thầy đã ghi lại ấn tượng tốt đẹp của thời mới lớn -thầy Lê Khắc Phò, Cao Xuân Lữ, Hà Như Chi, Lê Hữu Mục… Chuyến tàu đi như trong mơ. Ðến Tour Chàm, đổi tàu, bà chị về Nha Trang, tôi tới xứ sương mù.
Trước đó, năm 1958, cùng với thằng bạn thời nhỏ Phan Thanh Thư cũng đã lên chơi Ðà Lạt bằng xe lửa. Cũng vẫn những toa tàu chạy nghiêng nghiêng trên đường núi. Ðến nơi đi tìm chỗ trọ thiên hạ chỉ một khách sạn nằm trên đường Hàm Nghi. Mình và Thư mang túi xách tới đó thì đã hết chỗ. Thấy hai thằng đứng lớ ngớ, có một ông người Huế đứng tuổi bèn hỏi và sau khi biết sự tình ông cho về ở nhà ông ngay dưới dốc gần đó, không lấy tiền. Thật đúng là tấm lòng vàng. Tên ông là Thế, thợ nhà in. Sau này Nguyễn lên làm việc ở Ðà Lạt, cùng với mấy người bạn mở nhà in Nhân Văn liền mời ông Thế vào làm chef typo.
Một lần nữa, cũng hồi còn trẻ cùng với Dung sau ngày cưới lên Ðà Lạt chơi. Ðó là vào Noel 1961. Hai vợ chồng mướn phòng có giường ngủ (couchette) trên xe lửa. Từ chỗ đó có thể ngắm cảnh thoải mái. Một đoàn tàu đi nhả khói ấm hai ven rừng (TCS). Ðẹp nhất là những rừng thông khi lên gần tới Ðà Lạt. Xe lửa chạy gập ghềnh (vì đường răng cưa), mùi nhựa thông bay ngập cửa sổ, khiến hai đứa ngất ngây. Lên tới Ðà Lạt, thuê phòng ngủ ở Kinh Ðô. Ban ngày đi dạo chơi khắp – khu Hòa Bình, chụp ảnh ở bờ hồ, đồi Cù, thác Cam Ly, hồ Than Thở. Ôi, thơ mộng và hạnh phúc. Những phút ấy làm sao tìm lại. Dù sau này vợ chồng lên ở Ðà Lạt cùng với hai con nhỏ.
Bây giờ xin nói về nhà ga Ðà Lạt.

Nhà ga Ðà Lạt xây theo kiến trúc Pháp. Gạch đỏ, ba cái tháp nhô lên, trên đỉnh nóc là chiếc đồng hồ điểm thời gian. Sau lưng nhà ga có rừng thông. Một tài liệu đọc được trên net ghi: Không phải ngẫu nhiên mà vào đầu thập niên 20 của thế kỷ vừa qua, người Pháp cho thiết lập hệ thống đường rail có răng cưa nối từ miền biển lên cao nguyên Lang Bian và cho xây nhà ga Ðà Lạt. Họ thấy Ðà Lạt chỉ có đường bộ, đường hàng không nên rất cần có thêm tuyến đường sắt trong quá trình trở thành một thành phố nghỉ mát tầm cỡ, một “thủ đô” mùa hè của Liên Bang Ðông Dương thời bấy giờ. Theo các tài liệu còn để lại, nhà ga Ðà Lạt được khởi công xây dựng vào năm 1932 do 2 Kiến trúc sư người Pháp cùng thiết kế và người thực hiện là nhà thầu xây dựng Võ Ðình Dung (Ðà Lạt). Ðến năm 1936, nhà ga được khánh thành, dùng vận chuyển hàng nông sản nhưng nhiệm vụ chính vẫn là chở khách du lịch. Thời bấy giờ, mỗi ngày có 3 đội tàu (mỗi tàu có 4 toa) ngược xuôi Ðà Lạt: Từ dưới lên có một chuyến khởi hành từ Sài Gòn, một chuyến từ ga Tháp Chàm (Phan Rang) và một chuyến từ ga Nha Trang và ngược lại cũng có 3 chuyến tàu từ Ðà Lạt đến 3 ga trên. Nếu tàu khởi hành ở Ðà Lạt lúc 5 giờ chiều thì sẽ đến Sài Gòn vào 9 giờ sáng hôm sau và ga Tháp Chàm trở thành một ga trung chuyển để thay đầu máy (răng cưa) mỗi khi tàu từ dưới Sài Gòn, Nha Trang lên Ðà Lạt…
Trong chiến tranh, nhà ga phải đóng cửa. Một thời, nó được dùng làm trạm đi và đến của Air Việt Nam. Như hồi nhỏ thường lang thang ở các sân ga bến tàu, những năm ở Ðà Lạt, tôi hay lui tới nhà ga để gọi là làm những cuộc chia tay tưởng tượng. Ấy một phần nữa cũng vì tôi mê khung cảnh của nhà ga này, và tiếng thông reo cùng mùi phấn thông trong gió (cũng là tưởng tượng đấy thôi). Nhưng tôi biết có hai người đã có những cuộc đưa đón chia tay ở sân ga Ðà Lạt. Chẳng thế mà có lời ca như thế này: Rồi một ngày kia / ga buồn chờ đón người yêu/ thềm ga vắng tanh… Phải thế không Uyên?

Ga Ðà Lạt được xây dựng trong sáu năm từ 1932 đến 1938 với bản thiết kế của hai Kiến trúc sư người Pháp – Moncet và Revéron, được đánh giá là nhà ga đẹp nhất vùng Ðông Dương. Khi xây dựng Ga Ðà Lạt các kiến trúc sư đã đưa cả yếu tố mỹ thuật kiến trúc và ý nghĩa của công trình vào việc xây một công trình có tính kỹ thuật (đây là điều đầu tiên trong ngành đường sắt lúc bấy giờ). Kiến trúc Ga Ðà Lạt giống các nhà ga ở các tỉnh miền Nam nước Pháp, tức là có mái và hai đầu mái uốn vòm. Nếu nhìn từ hai bên sẽ thấy ba mái nhọn nhô ra ở phía trên đầu rồi thụt vào ở phía chân, nhưng luôn theo kiểu thẳng đứng. Nhìn từ mặt trước, nhà ga kiến trúc có ba chóp nhọn tam giác tượng trưng cho ba đỉnh núi Lang Bian đồng thời mô phỏng mái nhà rông của cao nguyên, còn các mái ngói ở chân tam giác ngoài xiên ra như chân sườn núi. Ga Ðà Lạt mang phong cách kiến trúc ga xe lửa ở miền Nam nước Pháp nhưng lại có dấu ấn bản địa nên rất độc đáo.
Không gian nội thất của ga được chiếu sáng lung linh bởi các ô cửa kính nhiều màu ở phần chân mái. Ðây chính là phòng chờ cho hành khách, một không gian rộng lớn với các góc cạnh và đường nét ngay hàng thẳng lối, cao lớn, uy nghi mà cũng thật giản dị. Ngồi ở đây chờ đón người yêu thì thật tuyệt vời.
TN
Kỳ tới
Tuyến đường răng cưa và đầu máy hơi nước