Phim “Dunkirk” của đạo diễn Christopher Nolan không phải là một bộ phim chiến tranh kiểu bình thường. Trong phim ta không thấy những cảnh hai bên dàn trận đánh nhau, không thấy cảnh tướng lãnh bàn bạc chiến lược trước tấm bản đồ, không thấy cảnh máu tuôn xương đổ như trong “Saving Private Ryan”. Thậm chí từ đầu tới cuối ta chẳng thấy “kẻ thù” ở đâu cả, mặc dù ai cũng biết họ là quân Đức Quốc Xã.
“Dunkirk” là một câu chuyện về nhân cách, nhân phẩm và nhân tính trong một tình huống cực kỳ thê thảm, đầy tuyệt vọng. Bối cảnh của câu chuyện giả tưởng này là một sự kiện lịch sử lớn trong những ngày đầu của Ðệ Nhị Thế Chiến. Thời điểm là tuần lễ cuối Tháng Năm, 1940. Quân đội Anh (British Expeditionary Force, BEF) và Pháp đang bị dồn về Dunkirk, một thành phố ven biển phía Bắc nước Pháp, sau khi các chiến xa Panzer và oanh tạc cơ Stuka của quân lực Ðức đã phá vỡ thành trì phía Ðông, tràn qua Bỉ và Hoà Lan để tiến về Paris.
Trên đất liền, hơn 300,000 binh sĩ BEF đang bị kẹt trên bãi biển Dunkirk chờ được di tản về Anh – cách đó chỉ mấy chục dặm bên kia bờ biển Manche. Trên biển, các chiến hạm và tàu lớn của Anh liên tục bị Luftwaffe (Không Lực Ðức Quốc Xã) tấn công và đánh chìm. Trên không, Royal Air Force (RAF, Không Lực Hoàng Gia Anh) vừa mới bị thiệt hại nặng nề trong các trận chiến vừa qua, nay lại phải đối đầu với những chiếc Stuka khét tiếng của Ðức. Cốt truyện “Dunkirk” được dựng lên xung quanh ba sự kiện này, bằng ba câu chuyện riêng lẻ và diễn ra trong ba khoảng thời gian khác nhau, nhưng được kết thúc cùng một lúc.
Câu chuyện thứ nhất (The Mole) xảy ra trên đất liền, trong vòng một tuần lễ trên bãi biển. The Mole là tên gọi chiếc cầu kéo dài ra ngoài biển cho tàu cặp bến. Câu chuyện thứ nhì (The Sea) diễn ra trên biển, trong vòng một ngày. Và câu chuyện thứ ba (The Air) diễn ra trên không, trong vòng một tiếng đồng hồ. Mỗi câu chuyện đều có những nhân vật riêng của nó, nhưng đến cuối phim thì họ được kết nối lại với nhau qua sự tình cờ (hoặc có thể là an bài) của định mệnh.

Ðạo diễn Christopher Nolan, lừng danh với loạt phim “Batman: Dark Knight”, là người hay dùng những thủ thuật và ngôn ngữ điện ảnh độc đáo. Trong phim “Dunkirk”, ông cố tình đưa khán giả qua ba khoảng thời gian riêng biệt không liên tục, làm cho lúc đầu người xem dễ bị hoang mang, không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Có người thì cho rằng điều này là một khuyết điểm của phim, người khác thì nói đây là một tuyệt chiêu vì nó biểu hiện sự rối loạn, mất phương hướng của các nhân vật. Ðúng hay sai, phải công nhận là Christopher Nolan đã lắp ráp những mảng không gian và thời gian này lại với nhau rất kỹ, mặc dù nó làm cho người xem dễ bị chưng hửng hoặc sốc nếu không biết trước để chuẩn bị tinh thần.
Một đặc điểm nữa của phim là lời thoại rất thưa. Ðến như nhân vật chính của câu chuyện trên đất liền, ta cũng không hề được biết tên anh ta là gì vì chẳng nghe ai gọi anh ta bao giờ. Mãi đến khi hết phim, đọc phần credit ta mới biết anh ta tên là Tommy! Còn người lính Pháp cùng Tommy trốn chạy cũng vậy. Từ đầu đến cuối anh ta chỉ mở miệng nói hai ba chữ. Thế nhưng anh cũng là một nhân vật khá quan trọng, người duy nhất đại diện cho quân đội Pháp trong phim. Và như đã nói ở trên, trong phim hoàn toàn vắng bóng lính Ðức mặc dù vẫn có những màn bắn nhau–trên đất liền cũng như trên không hay dưới biển, rất ư là gay cấn.
Nói đến bắn nhau, có lẽ đây là bộ phim chiến tranh đầu tiên cho ta nhìn cận cảnh các màn thả bom của mấy chiếc oanh tạc cơ Stuka, cộng với tiếng hú ghê rợn của chúng, mệnh danh là Tiếng Kèn Jericho. Stuka là tên tắt của Sturzkampfflugzeug, nghĩa đen là “diving bomber”, tức máy bay đâm thẳng thả bom. Lịch sử chiếc Stuka cũng khá ly kỳ.
Năm 1931, một phi công người Ðức tên Ernst Udet sang Mỹ và tình cờ được xem chiếc Curtiss F8C biểu diễn một màn nhào lộn, đâm thẳng xuống từ cao độ. Về lại Ðức, Udet thuyết phục Hitler cho chế tạo một loại máy bay với những đặc điểm tương tự nhưng dùng làm oanh tạc cơ. Sau vài năm nghiên cứu và thử nghiệm, chiếc Stuka ra đời với một số kỹ năng đặc biệt, như bộ thắng tự động làm máy bay tự bay ngược lên sau khi đã thả bom, lý do là vì lúc ấy phi công có thể đã ngất xỉu do lực G quá mạnh. Năm 1937 Stuka được mang qua Tây Ban Nha để tham gia cuộc nội chiến, đóng góp không ít cho phe Franco. Tới năm 1939, khi thế chiến bùng nổ, thì có ít nhất một chiếc Stuka đã bị bắn rớt.

Trong những ngày đầu của Ðệ II Thế Chiến, các phi đội Stuka đã càn quét và phá tan tành các sư đoàn thiết xa của Pháp. Nhờ vậy quân Ðức đã dễ dàng xâm lăng từ phía Ðông. Không lực hoàng gia Anh (RAF) đã phải đưa một số chiến đấu cơ Spitfire sang Pháp để cấp cứu. Spitfire bay nhanh và dễ điều khiển hơn nên mới khống chế nổi mấy chiếc Stuka cồng kềnh. Thêm vào đó, phi trường bên Anh rất gần Pháp nên các phi đoàn của RAF không phải bay xa như của Luftwaffe.
Dù vậy, khá nhiều chiếc Spitfire cũng đã bị bắn rơi trên đất Pháp. Cho nên khi Winston Churchill lên làm thủ tướng–vài tuần trước khi xảy ra biến cố Dunkirk, thì không quân Anh đã được kéo về để phòng thủ, chuẩn bị cho một cuộc tổng không kích từ Ðức mà ai cũng biết chắc sẽ xảy ra. Và cũng vì lý do đó mà chính phủ Anh đã phải cố gắng đem hơn 300,000 quân của mình về nước thay vì để họ ở lại để đánh nhau với quân Ðức trên đất Pháp.
Kẹt một nỗi, eo biển giữa Anh và Pháp (English Channel) cứ bị Stuka tấn công tới tấp khiến cho việc di tản vô cùng khó khăn. Các vị tướng lãnh lúc ấy chỉ dám hy vọng may ra cứu được 30,000 lính của mình là cùng. Câu chuyện “Trên Không” trong phim “Dunkirk” chính là một trận không chiến giữa những chiếc Spitfires và Stukas để bảo vệ thuyền bè trên biển.
Trong những giây phút Dunkirk đang hấp hối, người dân Anh ở ven biển đã nhào ra cứu vãn tình hình. Họ đã đem không biết bao nhiêu là thuyền bè sang Dunkirk để hỗ trợ cho hải quân Anh. Theo sử sách kể lại, những chiếc thuyền nhỏ của họ đã được tận dụng để chuyên chở binh lính từ trong bờ ra các chiến thuyền neo ngoài khơi, xa tầm tấn công của không quân Ðức. Tổng cộng có cả thảy 328,000 lính Anh và hơn 100,000 lính Pháp đã được di tản kịp thời. Nhờ vậy quân đội hoàng gia sau này mới có cơ hội cùng với Ðồng Minh lật ngược thế cờ, đổ bộ lên Normandy, giải phóng nước Pháp và Âu Châu khỏi nanh vuốt của Ðức Quốc Xã.
Trước khi bại trận, Hitler có ghi trong quyển nhật ký là ông ta rất tiếc Churchill đã không chơi đẹp, khi mà Hitler đã “tha” cho nước Anh một lần tại Dunkirk. Cho tới hôm nay, các sử gia vẫn không biết 100% vì sao quân Ðức đã không tiến đánh Dunkirk một trận tơi bời hoa lá mà lại để cho đối phương chạy thoát trong đường tơ kẽ tóc như vậy. Một điều rất rõ là giữa các vị tướng của Ðức lúc đó cũng có lục đục, bất đồng ý kiến trong chiến thuật và chiến lược. Ðến khi Hitler đích thân sang Pháp để xem xét tình hình và ra quyết định thì thời cơ đã bị bỏ lỡ. Thật cũng may cho Âu Châu và cả thế giới, nếu không giờ đây ai biết lịch sử loài người sẽ ra sao?

Về mặt kỹ thuật, “Dunkirk” được quay bằng loại phim analog khổ lớn chứ không phải phim digital cho nên hình ảnh và màu sắc của phim trông “thật” hơn, sắc nét hơn. Ai có cơ hội nên xem phim này trên màn ảnh IMAX. Âm thanh của phim cũng được làm rất sống động và rất kỹ. Nhưng ấn tượng nhất là phần âm nhạc của Hans Zimmer. Nó không giống như các cuốn phim chiến tranh khác từ xưa đến nay. Nhiều đoạn nhạc rất lạ tai, không đi theo một cung bậc nào rõ rệt, cứ lơ lửng một hồi lại đổi sang khoá (key) khác, tựa như tâm lý hỗn loạn của các nhân vật. Sẽ không có gì đáng ngạc nhiên nếu nhạc phim “Dunkirk” đoạt nhiều giải thưởng, kể cả Oscar.
Mặc dù “Dunkirk” không có nhiều diễn viên với tên tuổi lớn, nhưng tất cả đều diễn xuất rất tự nhiên và thuyết phục, luôn cả Harry Styles của ban nhạc “One Direction” trong một vai phụ. Nói tóm lại, đạo diễn Christopher Nolan đã rất thành công với “Dunkirk”, và có lẽ nó sẽ là một trong những bộ phim kinh điển về Ðệ Nhị Thế Chiến chẳng thua gì “Saving Private Ryan” hay “Schindler’s List”.
BB