Menu Close

Bão Thép – trích đoạn bút ký chiến trường (Kỳ 1)

Bão Thép của Junger là tác phẩm về thế chiến hay nhất mà tôi đã đọc.

André Gide

Cùng với những nhà văn viết về chiến tranh thế kỷ 20: Marc Bloch, Henri Barbusse, Edmund Blunden, Robert Graves… Ernst Junger đã sớm nổi tiếng với Bão Thép, một bút ký Đường Số Một, Mùa Hè Đỏ Lửa của Phan Nhật Nam. Khác Paul Grawin trong Tôi đã là y sĩ tại Điện Biên Phủ, một tiền thân khác của Y sĩ tiền tuyến của Trang Châu trong thập niên 60, chuyên chú về những vết thương chiến tranh trên da thịt con người, Junger vinh danh khía cạnh “thiên anh hùng ca” của người lính Đức trước sắt thép và cái chết.

Ngày đình chiến, Junger là một sĩ quan trẻ tuổi với huân chương chữ thập sắt mạ vàng đính kim cương cao quý nhất của Lục quân Đức. Bất mãn với cách mạng vô sản “đâm sau lưng chiến sĩ” tháng 11-1918, bất mãn với thế hệ trẻ thành thị tiêu biểu qua Rosa Luxembourg đã không biết chia sẻ những hy sinh của người lính ngoài mặt trận, Junger xông vào văn chương bằng sức mạnh của lựu đạn, thứ vũ khí cá nhân lần đầu tiên xuất hiện trên các chiến trường Âu Châu. Với Bão Thép xuất bản năm 1920, Junger tung lựu đạn vào một hậu phương trí trá. Ngược hẳn Eric Maria Remarque, một nhà văn Đức cùng thời, cùng khởi nghiệp văn từ trong các chiến hào đẫm máu với Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh, Về Sau, hay Chiến Hữu đã chọn tố cáo những hủy hoại vô ích của chiến tranh, những mất mát vô hình mãi mãi đục khoét và gây tàn phế tâm tư người lính, Bão Thép của Junger tiêu biểu cho suy nghĩ của một tầng lớp thanh niên đã cầm súng, trong không khí khủng hoảng kinh tế và khát vọng tìm lại danh dự quốc gia của một nước Đức bại trận đã bắt đầu vang dậy bước chân của các Đoàn Thanh niên Xung kích Phát xít.

Cũng như Phan Nhật Nam về sau, Ernst Junger thời kỳ đầu không hành văn, chỉ ghi lại giữa các trận đánh những suy nghĩ của người lính khi đối mặt kẻ thù, khi gồng gánh trên vai cả hậu phương lẫn tổ quốc. Chân thật là tính chất đầu tiên làm nên giá trị Bão Thép, một giá trị sẽ được chính những kẻ thù bên kia rào kẽm gai của các phòng tuyến Somme, Flandres, Langemark và Douaumont chia sẻ. Thống chế Alphonse Juin, tổng tham mưu trưởng lục quân Pháp sẽ là người viết tựa cho Bão Thép một trong những lần tái bản. Junger chỉ bắt đầu thay đổi suy nghĩ khi bước sang thế chiến thứ hai, cho dù không hề kết án những người lính hào hùng của Bão Thép, độc giả cũng không bao giờ còn gặp lại những hưng phấn tương tự trong các bút ký viết trong thời gian 1939-1945, như thể Junger đã chôn cất chúng vào giữa tro than xương máu của bao nạn nhân.

‘‘Khi biết rõ những trường hợp cá nhân và khi phải nghi ngờ số tội ác đã hoàn tất trong những mộ địa thì người ta khám phá ra nỗi đau khổ cao vọt tới ngần ấy, nó tước hết can đảm. Tôi đâm ghê tởm những binh phục, cấp bậc, huân chương, khí giới, thứ mà tôi đã từng say mê ánh sáng mạ kền chiếu ngời’’ [1].

Nếu trong Nhật ký Paris thứ nhất, Junger đã ghi lại sự phản tỉnh của mình, thì trong quá khứ, nhà văn đã xuất bản ba chứng từ về cuộc chiến 1914-1918, ghi chép từng sự kiện mình đã sống qua, đã xảy ra ngày một, một loại nhật ký của người lính tuyến đầu và của sĩ quan trẻ chỉ huy phản kích. Bão Thép là chứng từ đầu tiên khởi đi từ mùa đông 1914 và chấm dứt vào mùa thu 1918. Chứng từ thứ nhì Cột Mốc 125 [2] là mặt trận kéo dài trong vài tuần lễ, tiếp theo Lửa và Máu [3], một cuốn sách gom cô lại bao nhiêu sự kiện xảy ra trong vài ngày, thậm chí vài giờ. Ngoài bộ ba này, còn có tiểu luận Chiến tranh như một kinh nghiệm nội tại [4] và một thử nghiệm dưới dạng tiểu thuyết về những gì ghi chép trong nhật ký: Trung úy Sturm [5].

Bìa sách Trung úy Sturm - nguồn Goodreads
Bìa sách Trung úy Sturm – nguồn Goodreads

Thực ra, các tác phẩm Junger công bố trước quần chúng thời đệ nhất thế chiến vừa tàn lụi không hẳn là sự chuyển sao trực tiếp từ nhật ký. Tổng cộng trong quá trình văn nghiệp, Junger đã viết lại bảy lần Bão Thép. Thay đổi liên tục này, ngoài sự thể hiện việc đi tìm sự hoàn chỉnh cho văn bản, còn là một ý thức đã nhen nhúm trong lòng Junger sau khi Hitler lên nắm chính quyền. ‘‘Phải bỏ bớt những gì có thể xem như rao giảng cho đảng’’. Julien Hervier, giáo sư văn chương và dịch giả, đã nêu ra một thí dụ: Trong Lửa và Máu, ở đoạn nhắc đến địch thủ và kích động việc chuẩn bị hạ sát hắn, Junger đã đổi lại bản viết trước: ‘‘Nhanh! Gấp lên! Phải giết hắn! Bây giờ chỉ còn sự đền tội, sự hoàn tất và hạnh phúc: Máu phải đổ. Chúng ta sắp sửa thực hành và nghiệm trước một nỗi vui ma quỷ, chúng ta sẽ chứng tỏ mình là kẻ mạnh nhất, không ai thắng nổi. Đợi đó, thần chết!’’ thành bớt sôi sục hơn trong bản cuối cùng: ‘‘Nhanh! Nhanh lên! Trong chốc lát, chúng ta sẽ nhìn thẳng vào mắt địch thủ. Chúng ta đã chiến thắng sự kháng cự mãnh liệt của hắn và chúng ta sẽ ban tặng cho hắn cái chết’’. Trên con đường văn chương, những xét lại này hẳn nhiên là kết quả trăn trở của một nhà văn đầy ý thức. Người lính trẻ điên cuồng nhiệt huyết mang đầy thương tích cũng như huân chương ở thời hai mươi tuổi đã khác xa. Người lính đã thức tỉnh, như cả thế hệ thanh niên ấy, bởi nghiệm sinh từ cuộc chiến tranh kỹ nghệ càng tân tiến lại càng tàn khốc. Cũng từ một mặt trận miền Tây, năm 1942, Junger ghi: “Tôi lại tự hỏi, dù sao đi nữa, chắc sẽ không tốt gì nếu tôi đến thăm những nơi ghê rợn này, như một chứng nhân, để thấy và để nhận ra đâu là kẻ giết người, đâu là nạn nhân”…

Người lính trong phim Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh - nguồn Gravy Bread - WordPress.com
Người lính trong phim Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh – nguồn Gravy Bread – WordPress.com

Văn nghiệp Ernst Junger, là văn nghiệp của một nhà văn không ngừng đặt lại những giá trị xã hội mà phạm trù tổ quốc không đủ che chắn tội ác.

Trích đoạn Bão Thép, do dịch giả Cổ Ngư (sinh 1963, tên thật Nguyễn Linh Quang) chuyển ngữ từ bản dịch Pháp văn Orages d’Acier của Henri Plard, nxb Christian Bourgois, 1995.

Trần Vũ

Cổ Ngư dịch

Kỳ 1: Trận xung kích cuối cùng

[…]

Ngày 30 tháng 7 năm 1918, chúng tôi dưỡng quân tại Sauchy-Lestrée, một viên ngọc của vùng Artois, nước trong leo lẻo. Vài ngày sau, chúng tôi di chuyển đến Escaudoeuvres, một khu ngoại ô của công nhân, eo sèo đến nỗi thành phố Cambrai [6] thanh lịch không thèm ngó ngàng đến. Tôi tạm trú ở đường Bouchers, trong gian chính của một ngôi nhà công nhân, như người ta thường thấy ở miền Bắc nước Pháp. Có một chiếc giường khổng lồ, theo truyền thống của vùng; lò sưởi với bệ trưng vài bình thuỷ tinh xanh đỏ; một bàn tròn, mấy cái ghế; hai ba tấm tranh in màu của Familistère, loại «Vui đến trường» hoặc «Kỷ niệm ngày rước lễ lần đầu»; bưu thiếp gắn trên tường, tất cả những thứ đại loại như vậy tạo nên khung cảnh. Cửa sổ mở về phía nghĩa trang.

Những đêm rằm, trời trong, tạo điều kiện cho máy bay địch hoạt động; các cuộc tấn công ngày càng dữ dội khiến chúng tôi nghĩ đến sự vượt trội về quân cụ của đối phương. Hàng đêm, nhiều phi đội bay qua, thả xuống Cambrai và vùng phụ cận những khối bom với sức nổ đáng ngại. Phần tôi, bị tiếng vo vo của động cơ máy bay và từng chuỗi tiếng nổ vang vang quấy rối thì ít, nhưng lại đinh tai nhức óc vì sự náo động của mấy người chủ nhà, bán sống bán chết chạy xuống hầm trú ẩn. Ðúng là, một ngày trước khi tôi đến trọ, một quả bom rơi ngay trước cửa sổ, hất văng ông chủ nhà đang ngủ say xuống đất, dứt đứt một trụ giường và ghim đầy mảnh lên tường. Nhưng cũng chính vì thế mà lại cảm thấy an toàn, vì tôi cũng hơi tin nhảm như bọn lính cụ, cho rằng: Chắc ăn nhất là nấp trong những hố bom vừa mới bị xới lên.

Sau một ngày nghỉ ngơi, khoá học lại tiếp tục đều đặn. Thực tập, lý thuyết, bàn thảo, kiểm tra chiếm gần hết thời gian trong ngày. Lương thực, thêm một lần nữa, thiếu thốn, với chất lượng kém. Trong suốt thời gian này, khẩu phần tối chỉ gồm toàn dưa chuột, mà lính tráng gắn ngay cho một cái nhãn rất tếu: «Dồi vườn». Tôi dồn sức vào việc thành lập một tổ xung kích, bởi càng trải qua nhiều lần chạm súng, nhận thức của tôi càng rõ rệt hơn về mối tương quan quân số, đang dần dần thay đổi trong lực lượng quân đội. Một tổ xung kích đúng nghĩa chỉ cần trông cậy vào một nhóm nhỏ, gồm những chiến binh với chí khí sắt thép, trong khi đám đông nối gót theo sau chỉ được tính thêm vào nhờ hỏa lực của họ. Trong những điều kiện như vậy, đứng đầu một nhóm quả cảm hơn hẳn việc có trong tay cả một đại đội đã thối chí, ngã lòng.

Tôi cũng dành thời gian để đọc sách, bơi lội, bắn bia và tập ngựa. Tôi thường xuyên có dịp, chỉ trong vòng một buổi trưa, bắn hơn một trăm viên đạn vào đích nhắm, là chai lọ hay lon đồ hộp. Trong những buổi cưỡi ngựa đi dạo, tôi nhặt về từng gói truyền đơn mà địch, trong kế hoạch tâm lý chiến, rải xuống ngày càng nhiều. Thường thường, mấy tờ truyền đơn này nói bóng gió chuyện chính trị hay quân sự, hoặc tuyên truyền bằng những hình vẽ ngây ngô về sự huy hoàng trong đời sống của các trại giam tù binh của bọn Anh. Một tờ truyền đơn có nội dung như sau: «Này, chỉ nói chuyện này giữa chúng mình với nhau thôi nhé, sau buổi tải lương tải đạn hay đào hào đắp lũy, lợi dụng lúc trời nhập nhoạng tối, bạn đào ngũ dễ ẹt!». Một tờ khác còn trích cả bài thơ của Schiller về nàng Albion tự do [7]. Ðịch lợi dụng khi thuận gió, thả bóng bay xuống mặt trận, có cột từng bó truyền đơn với những sợi dây dễ cháy. Trong chốc lát, dây đứt, truyền đơn rải tung. Việc thưởng ba mươi xu cho ai đem nộp một tờ truyền đơn chứng tỏ bộ chỉ huy tin vào tác hại của chiến dịch này. Cũng cần phải nói thêm, tiền chi trả cho chuyện thu hồi truyền đơn lại rút ra từ túi dân chúng vùng chiếm đóng.

Một buổi trưa, tôi phóng xe đạp về tận Cambrai. Cổ thành trống rỗng. Hàng quán đóng im ỉm. Ðường phố như chết rũ, dù bóng quân phục xám vẫn dập dìu qua lại. Tôi tìm gặp ông bà Plancot, đã cho tôi ở trọ trong nhà họ năm ngoái; họ vô cùng mừng rỡ khi thấy tôi ghé thăm. Ông bà Plancot than thở: Cambrai bây giờ tệ lắm, nhất là từ khi máy bay cứ kéo đến thường xuyên, khiến họ, có khi nhiều lần trong đêm, cứ phải nhào xuống lộn lên cầu thang, vừa chạy vừa cãi nhau xem, nếu mà bom rơi, nhà sập, thì chết ở đâu sướng hơn, trong hầm rượu thứ nhất hay dưới hầm rượu thứ nhì. Tôi thật tình xót xa cho những người thị dân già nua này, với gương mặt lộ rõ vẻ lo âu. Vài tuần sau, khi đến phiên đại bác nhập cuộc, họ phải vội vàng từ bỏ ngôi nhà mà cả đời đã sống ở đấy.

Bìa sách Bão Thép - nguồn livre de poche
Bìa sách Bão Thép – nguồn livre de poche

Ngày 23 tháng 8, khoảng mười một giờ đêm, vừa mới yên giấc, tôi vội giật mình thức dậy vì những tiếng đập cửa dữ dội. Một liên lạc viên đem đến lệnh hành quân. Buổi chiều, từ phía mặt trận, chúng tôi đã nghe dội lên những tiếng rền rền, thình thình đều đặn nhưng mãnh liệt khác thường của đại bác. Ðiều này báo trước, ngay từ giờ cơm hay lúc ngồi chơi bài, rằng chúng tôi khó có hy vọng được nghỉ ngơi lâu. Cho cái tiếng ùng ục của cà nông từ xa vọng lại ấy, chúng tôi đã chế ra một tiếng lóng, rất tượng thanh es wummert (ùm oàm). Chúng tôi vội vàng thu xếp quân trang và tập họp trên đường về Cambrai, đúng lúc một cơn giông kéo mưa rào ập xuống. Lúc năm giờ sáng, chúng tôi có mặt tại điểm tập kết Marquion. Ðại đội kéo vào trú trong một trang trại lớn, có dãy chuồng ngựa bỏ phế bao quanh, rồi, mạnh ai nấy tìm chỗ nghỉ lưng. Cùng với Trung uý Schradel, viên sĩ quan duy nhất của tôi ở đại đội, chúng tôi len lỏi giữa một đống gạch vụn tỏa mùi hăng hắc. Chắc nơi này trước đây dùng để nuôi dê, nay chỉ còn vài gã chuột kềnh trú ngụ.

Trưa, trong buổi họp sĩ quan, chúng tôi được thông báo: Ngay trong đêm, sẽ phải ra chiến tuyến, nằm phía bên phải con đường nối Cambrai-Bapaume, không xa Beugny lắm. Chúng tôi được lệnh chặn đứng một cuộc tấn công của loại chiến xa mới, xoay trở nhanh và được điều khiển khéo léo.

Tôi ứng đọc huấn lệnh trước đại đội trong một vườn cây ăn trái. Ðứng dưới gốc táo, tôi nói vài lời với thuộc cấp, đang quây chung quanh theo hình bán nguyệt. Gương mặt họ rắn đanh lại. Chẳng có gì nhiều nhặn để nói. Mấy ngày gần đây, hầu như ai cũng nhận ra rằng chúng tôi đang trượt xuống dốc. Trong mỗi lần tấn công, địch lại đem ra chiến trường những thứ vũ khí ngày càng lợi hại. Chúng tôi biết không thể nào thắng nổi nữa rồi, nhưng kẻ thù cũng cần phải thấy: ý chí cương cường của quân đội Ðức chưa đến nỗi tiêu biến hẳn đâu.

Trong vùng ánh sáng lờ mờ ma quái, cùng với tiếng xe lắc lư loảng xoảng, chúng tôi vượt qua mảnh đất bị cày xới vì trận Cambrai hồi năm ngoái, rồi đội hình uốn khúc giữa hai đống đổ nát, trên những con đường xuyên qua nhiều khu thị trấn tan hoang. Ngay trước Beugny, chúng tôi đổ quân và nhận cứ điểm, nằm dọc theo một con lộ trũng, gần đường nối Beugny-Vaux. Buổi sáng, một liên lạc viên chuyển lệnh phải đưa đại đội tiến sát đến đường Frémicourt ở Vaux. Những cuộc tiến quân từng chặng này khiến tôi đoan chắc rằng, chúng tôi sẽ lao vào trận chiến đẫm máu trước khi trời tối. Tôi dẫn ba trung đội đi hàng một theo hình chữ chi qua khoảnh đất mà mấy chiếc máy bay quần đảo liên tục và thả xuống nào bom nào tạc đạn. Ðến nơi đã định, chúng tôi rải ra, trú trong những hốc, hang, hố lòng chảo, vì thỉnh thoảng, một vài trái phá lại rót xuống mặt đường. Mệt mỏi, tôi chúi vào một góc chiến hào và thiếp đi. Khi thức giấc, tôi lôi quyển Tristram Shandy trong túi tài liệu ra đọc dưới nắng trưa ấm áp, an nhàn như một người vừa ốm dậy.

Sáu giờ mười lăm, một liên lạc viên đem lệnh gọi của Ðại uý Von Weyhe, triệu tập các đại đội trưởng. «Tin quan trọng đây, mấy ông: Chúng ta tấn công. Tiểu đoàn xung trận lúc bảy giờ, sau ba mươi phút nã đạn liên tục của pháo binh, lấy điểm khởi hành là rìa tây của làng Favreuil. Cứ nhắm tháp chuông Sapignies mà tiến». Sau khi bàn cãi đôi điều và bắt tay nhau thật chặt, chúng tôi chạy vội về các đại đội, vì chỉ còn mười phút nữa là đến giờ khai hoả, mà chúng tôi còn phải vượt cả một quãng đường dài. Tôi báo ngay cho các trung đội trưởng biết và ra lệnh tập họp. «Ðội hình dọc hàng một, cách nhau hai mươi thước. Mục tiêu xiên bên trái: Ðỉnh những hàng cây của làng Favreuil». Khi tôi đề nghị chọn một người giữ nhiệm vụ đoạn hậu và liên lạc với quân xa, không ai chịu xung phong cả, điều này chứng tỏ tinh thần binh sĩ vẫn còn vững vàng. Cùng với Reinecke, sĩ quan tham mưu của đại đội, người biết rõ địa thế của vùng này, chúng tôi dẫn đầu đội hình. Ðạn pháo nổ tung sau các giậu cây và những đống đổ nát. Chúng giống những tiếng sủa hung tợn hơn là ngọn thủy triều ập đến để cuốn trôi đi tất cả. Sau lưng chúng tôi, binh đội răm rắp tiến bước. Quanh họ, bom rơi, bụi bốc; những khối nổ tròn xoay, vỏ trái phá, cánh phi đạn rú rít xuyên ngang giữa hàng quân. Bên phải là Beugnâtre, đang bị pháo dập, có những mảnh sắt vụn rung bần bật văng đến tận chỗ chúng tôi, cắm phập vào đất sét. Vượt qua đoạn đường từ Beugnâtre đến Bapaume, việc chuyển quân càng gặp thêm nhiều khó khăn. Bất chợt, một chuỗi trái phá vỡ bùng trước mặt, sau lưng và ngay giữa hàng ngũ chúng tôi. Mọi người nhảy tránh tán loạn, nằm dán sấp người xuống hố trũng. Tôi khuỵu chân đúng vào một bãi thải của ai đó vừa vãi ra, và viên sĩ quan tùy tùng vội vã dùng dao gạt phăng ngay. Khói lửa phủ kín rìa làng Favreuil. Những cột đất nâu luân phiên phun toé lên, văng tung xuống. Tôi lao đến đống gạch vụn đầu tiên để tìm vị trí, rồi vung gậy chỉ huy, ra hiệu tiến quân. Quanh làng, những trạm nghỉ chân lỗ chỗ đầy vết đạn. Tại đó, từng nhóm, từng nhóm của tiểu đoàn 1 và 2 dần dần tập họp lại. Ở chặng đường cuối, một khẩu trung liên gây vài tử vong. Từ vị trí của mình, tôi trông thấy một đường bụi mỏng bốc lên, thỉnh thoảng lại có một người lao vướng vào đấy như bị mắc bẫy, trong đó có cả Trung sĩ Balg của đại đội tôi, đạn xuyên qua đùi.

Một bóng người khoác áo dạ nâu bình tĩnh vượt qua vùng bom đạn đến bắt tay tôi. Bạn đồng ngũ. Cả bọn nấp sau một hàng giậu cây bị đạn miểng chém phạt tơi tả, chuẩn bị cho một cuộc tấn công dai dẳng. Chúng tôi đã trải qua nhiều ngày chiến đấu ác liệt ngay tại đây, và lần này cũng vậy, ánh dương, dù sắp tắt nơi chân trời, sẽ còn dịp tiếp tục hâm nóng bầu nhiệt huyết của bọn chúng tôi. Vài phân đội của tiểu đoàn 1 chiếm lấy khu vườn của toà lâu đài. Ở tiểu đoàn 2, chỉ có đại đội của tôi và đại đội 5 vượt qua được bức màn lửa gần hết. Chúng tôi mở một con đường xuyên qua hầm hố và nhà cửa đổ nát, ra đến được con lộ trũng ở rìa tây của làng. Ðường thông, tôi nhặt một cái nón sắt chụp lên đầu – hành động chỉ làm trong những trường hợp rất nguy kịch. Tôi thật ngạc nhiên khi thấy làng Favreuil vắng ngắt. Rõ ràng là quân phòng thủ đã rút lui, vì, giữa những đống đổ nát, một bầu không khí kích động bắt đầu lan tỏa từ đất, cái thứ không khí kỳ lạ chỉ thấy được trên một mảnh đất vô chủ, giữa những lúc như thế này.

(còn tiếp)