Menu Close

Bão Thép – trích đoạn bút ký chiến trường (Kỳ 2)

Ðại uý von Weyhe, bị thương nặng, nằm vùi một mình trong hố bom góc làng, vậy mà chúng tôi chẳng hay biết gì cả. Ông đã quyết định để đại đội 5 và đại đội 8 tấn công ở tuyến đầu, đại đội 6 sau đó và đại đội 7 cuối cùng. Nhưng, vì chẳng thấy đại đội 6 và 8 đâu hết, tôi lấy quyết định tấn công mà chẳng còn bận tâm đến chuyện chia tuyến trước sau gì nữa cả. Bảy giờ, giờ G đã đến. Giữa cảnh nhà trơ sườn, cây cụt ngọn, tôi trông thấy một hàng tân binh chạy tràn đến dưới sự hậu thuẫn yếu ớt của pháo binh. Ðúng là đại đội 5. Tôi sắp xếp lại đội ngũ dưới tán cây của con lộ trũng và ra lệnh tiến công bằng hai đợt. «Cách nhau một trăm thước. Bản thân tôi sẽ có mặt ở giữa đợt một và đợt hai». Trận xung kích cuối cùng của chúng tôi. Mấy năm nay, đã bao nhiêu lần rồi, cũng với tâm trạng như thế này, chúng tôi đi về hướng mặt trời lặn. Các chiến hữu, lại thêm một lễ hội đẫm máu đang chờ đón chúng ta.

Chúng tôi ra khỏi con lộ trũng như ra khỏi nơi thao diễn, trừ «bản thân tôi» – như cách nói khi tôi ra lệnh – gặp ngay Trung uý Schrader, đang dẫn đầu đợt một. Tôi cảm thấy khá hơn một chút, nhưng trông cũng chẳng ngon lành gì cho lắm. Sau này, khi Haller đến chào tôi trước khi xuống tàu đi Nam Mỹ, anh ta kể rằng một người lính đứng kế bên đã nói với anh như sau: «Ê mày! Tao sợ bữa nay ông thầy không qua khỏi!». Chính con người kỳ lạ này, với tính tình nóng nảy, phá phách một cách đáng mến, qua câu chuyện, đã khiến tôi ngạc nhiên không ít khi biết lính tráng lại để ý từng ly từng tí một đến mối an nguy của thượng cấp. Thật vậy, khi đó, tôi cảm thấy yếu lắm, và thoạt đầu, cứ cho rằng thế nào cuộc tấn công cũng bị thất bại, dù, tôi rất hứng khởi khi nghĩ về nó. Ở đó, thiếu sự cuồng nộ tràn bờ của trận đánh lớn, phần tôi, lại cảm thấy hoàn toàn xa lạ với bản thân mình, cứ như tôi quan sát chính tôi từ xa, bằng ống nhòm vậy. Lần đầu tiên trong cuộc chiến này, tai tôi nghe được tiếng rít của đạn như khi chúng sượt qua một vật bất động. Quang cảnh trước mắt có độ trong suốt của thủy tinh.

baothep2-01

Vẫn có những viên đạn lạc chíu chít quanh chúng tôi. Có thể những mảng tường phía xa xa của ngôi làng đã khiến kẻ thù không trông thấy chúng tôi quá rõ nét. Tay phải nắm gậy chỉ huy, tay trái cầm súng lục, tôi sải từng bước dài, và, vì không để ý, đã bỏ lại phía sau cả hàng tân binh của đại đội 5. Trong khi dấn bước, tôi cảm thấy chiến công bội tinh đeo trước ngực bị tuột rơi xuống đất. Schrader, viên sĩ quan tuỳ tùng và tôi xổng lưng loay hoay tìm kiếm, mặc dù biết có thể làm bia nhắm cho bọn xạ thủ vô hình. Cuối cùng, Schrader lôi tấm huy chương ra từ một túm cỏ, và tôi gài ngay vào ngực áo.

Bãi bằng dần. Nhiều bóng hình nhập nhoè lay động trên nền đất sét nâu đỏ. Một khẩu trung liên khạc vào chúng tôi từng băng đạn. Càng lúc, tôi càng nhận thấy tất cả đều vô ích. Dù vậy, chúng tôi vẫn sải chân chạy, trong khi đường bắn mỗi lúc một thêm chuẩn xác. Chúng tôi phóng vượt qua vài cái hố cá nhân và mấy đoạn chiến hào trước đây được dựng lên vội vã. Ðúng lúc tôi đang nhảy qua một khúc giao thông hào được đào khá cẩn thận, một cú đập mạnh vào ngực khiến tôi mất đà, rụng xuống như chim trúng đạn. Gào lên một tiếng phẫn nộ, như có thể trút hết cả không khí ra khỏi lồng ngực, tôi xoay mòng và ngã vật xuống trong tiếng tinh tang của kim loại.

Lần này, giũ nợ rồi. Ðúng ngay lúc cảm thấy bị trúng thương, tôi biết viên đạn đã xén đứt ngọn nguồn của cuộc sống. Trên đường đến Mory, tôi đã cảm nhận được bàn tay thần chết – lần này, siết mạnh, bóp chặt. Trong khi đổ ịch xuống lòng chiến hào, tôi chắc mẩm mình sẽ không qua khỏi. Và, thật kỳ lạ, đó chính là một trong những giây phút hiếm hoi mà tôi cảm thấy thực sự sung sướng. Khoảnh khắc này, như ánh chớp loè, giúp tôi nhận ra được những ẩn mật sâu kín nhất của cuộc đời mình. Kinh ngạc cảm thấy nó sẽ chấm dứt ngay tại nơi đây, nhưng nỗi kinh ngạc này lại nhuốm vẻ hân hoan. Rồi, tiếng động quanh tôi giảm dần cường độ, tựa như tôi đang rời khỏi mặt nước ầm động, chìm sâu xuống. Bây giờ, quanh tôi, chẳng có chiến tranh, không còn kẻ thù.

***

Tôi hay bắt gặp nhiều thương binh nằm thẫn thờ trên giường bệnh. Họ trở nên kỳ dị, vì sự náo động của trận chiến, vì niềm hăng hái cuồng nhiệt của đam mê loài người vẫn tiếp tục dội đập quanh họ, và tôi có thể thông hiểu được phần nào nỗi bí mật ấy.

Thời gian tôi bất tỉnh nằm sóng sượt chắc không kéo dài lâu lắm, nếu tính theo giờ khắc của đồng hồ – tương ứng với lúc đợt một của bộ đội kéo đến chiến hào, nơi tôi ngã xuống. Tỉnh dậy, tôi nằm kẹt giữa hai vách đất hẹp, đau khổ tột cùng, trong lúc tiếng gọi: «Cáng thương! Ðại đội trưởng bị rồi!» tiếp tục truyền dọc theo một đội hình những dáng người đang lom khom tràn tới. Một trung niên của đại đội khác cúi xuống bên tôi, khuôn mặt phúc hậu. Ông ta tháo thắt lưng, cởi áo khoác cho tôi. Hai vệt tròn láng bóng giữa ngực phải và sau lưng. Tôi cảm thấy mình hoàn toàn tê liệt, bị xiềng chặt vào đất và không khí cháy bỏng của khe trú hẹp khiến tôi tháo mồ hôi dầm dề như đang cơn hấp hối. Vị cứu tinh dùng túi đựng tài liệu quạt mát cho tôi. Ngạt thở, tôi trông chờ bóng tối. Ðột nhiên, từ phía Sapignies, một trận bão lửa nổ bùng. Rõ ràng là cái tiếng rền đập đều đặn không ngưng nghỉ kia chẳng nhắm vào việc xóa sổ cuộc tấn công của chúng tôi, vốn đã quá xui xẻo. Từ đáy chiến hào, tôi chăm bẳm nhìn lên khuôn mặt của Trung uý Schrader, đanh lại dưới vành nón sắt, đang bắn và nạp đạn liên tục. Chúng tôi trao đổi với nhau vài lời, và cuộc trò chuyện này làm tôi nghĩ đến cảnh diễn ra trên tháp, trong vở «Trinh nữ Orléans» [8]. Nhưng phải công nhận là tôi không còn đùa cợt nổi nữa, vì biết sắp tiêu tùng đến nơi rồi. Schrader thỉnh thoảng trả lời nhát gừng từng câu một, và tôi cũng chẳng còn để ý nữa. Biết mình bất lực, tôi tìm cách đọc trên khuôn mặt của Schrader để đoán xem những gì đang xảy ra trên trận địa. Hiển nhiên là địch quân đang giành lại đất, vì giữa các đồng đội của tôi, vọng lại tiếng xôn xao bàn tán rộ lên mỗi lúc một thêm sôi nổi về những cái bị thịt đang di động rất gần nơi phòng thủ. Ðột nhiên, như ngọn sóng thần quăng mình quật vỡ đê, một tiếng thét sợ hãi toang toé: «Chúng chọc thủng cánh trái rồi! Mình bị bao vây!» và tiếng kêu xé ấy truyền miệng từ người này sang người khác. Ðúng vào lúc đáng ngại ấy, tôi cảm thấy mình hồi phục dần, năng lượng nhen nhóm rồi bùng lên như ngọn đuốc. Tôi cố gắng móc hai ngón tay vào một cái lỗ bên vách chiến hào, vừa tầm níu, chắc do chuột khoét. Gượng dậy từ từ, trong khi máu đọng trong phổi chảy tràn qua mấy vết thương. Vậy mà tôi lại thấy đỡ hơn. Ðầu trần, áo phanh ngực, súng cầm tay, tôi quan sát trận chiến. Giữa những bụm khói trắng đục loang dài, một đoàn chiến binh trang bị nặng nề chạy lên phía trước. Vài người ngã xuống không động cựa, một số khác lăn tròn như mấy con thỏ trúng thương. Những người lính còn lại mất hút trong vùng đất trũng, cách chúng tôi chừng trăm thước. Chắc đây là một toán lính mới nhập ngũ, chưa từng có dịp thử lửa, vì họ tỏ ra hết sức dũng cảm, thứ dũng cảm của những kẻ thiếu kinh nghiệm chiến trường.

baothep2-022

Như được kéo bằng dây, bốn chiếc chiến xa bò lên đỉnh một nếp đất. Chỉ vài phút sau, pháo binh bắn chúng bẹp gí xuống. Một chiếc bị xẻ làm đôi như món đồ chơi làm bằng thiếc. Phía bên phải, Chuẩn uý Mohrmann lăn tròn, gào lên hấp hối. Người lính ấy có sự dũng cảm của loài mãnh sư; tôi đã nhận thấy điều đó trong trận chiến ở Cambrai. Một viên đạn vào giữa trán bắn anh ngã gục, chuẩn xác hơn viên đạn đã làm tôi bị thương trước đây, và được chính anh băng bó.

Tình hình chưa đến nỗi phải bó tay. Tôi bảo nhỏ Chuẩn uý Wilsky: Trèo lên mé trái và xả trung liên vào ổ phục kích của địch. Anh ta quay lại gần như tức thời và báo cho biết, cách chúng tôi chừng hai mươi thước, mọi người đều đã đầu hàng hết cả rồi. Chỉ có vài phân đội của một trung đoàn khác là còn kháng cự mà thôi. Khi đó, bàn tay trái tôi níu lấy túm cỏ như bíu vào bánh lái tàu. Bọn Anh, một bộ phận đã vượt qua vùng hào lũy, chạm vào cánh trái của chúng tôi; toán quân theo sau đợt này vượt lên trước, lưỡi lê cắm đầu nòng súng. Trước khi nắm vững sự khẩn cấp của tai họa, tôi lại thêm phân tâm vì hết sức bị bất ngờ: Một bọn địch khác công hãm từ sau lưng, kèm theo cả hàng binh, hai tay giơ cao khỏi đầu. Như vậy, kẻ thù đã lọt được vào làng ngay khi chúng tôi vừa lao vào cuộc phản công. Bây giờ, chúng đang siết lại, cắt đứt liên lạc giữa bọn tôi và hậu cứ. Càng lúc càng náo loạn thêm. Một vòng lính Anh và cả lính Ðức vây lấy chúng tôi, kêu gọi buông vũ khí. Hỗn loạn như cảnh chìm tàu. Bằng giọng thều thào, tôi gắng khích lệ binh sĩ tiếp tục chiến đấu. Họ bắn vào kẻ thù và vào cả hàng binh nữa. Một vòng tròn đan bằng những khuôn mặt câm lặng hoặc gào thét siết lại quanh toán quân nhỏ nhoi của chúng tôi. Bên trái, hai gã Anh khổng lồ đâm sục lưỡi lê vào một góc chiến hào, nơi có những bàn tay giơ lên cầu khẩn. Ngay trong hàng ngũ chúng tôi, cũng đã vang lên những tiếng kêu xóc óc: «Chẳng còn nghĩa lý gì nữa cả! Buông súng thôi! Ðừng bắn nữa, anh em ơi!» Tôi liếc nhìn hai người sĩ quan đang đứng cạnh bên, trong chiến hào. Họ trả lời tôi bằng một nụ cười, nhún cao vai và tháo thắt lưng với bao súng ném xuống đất. Tôi chỉ còn biết chọn lựa giữa, hoặc bị bắt, hoặc ăn đạn. Trèo lên khỏi chiến hào, cứ như trong một cơn ác mộng, tôi thất thểu đi về phiá Favreuil, với cảm tưởng chân mình cứ bị dính chặt vào đất. Ðiều thuận lợi duy nhất, có lẽ là hoàn cảnh lộn xộn lúc đó: Ở nơi này, người ta trao đổi thuốc lá, còn chỗ nọ, thiên hạ tiếp tục đè nhau ra cắt cổ. Hai tên Anh, đang dẫn độ một nhóm tù binh về phía phòng tuyến của họ, chặn tôi lại. Tôi gí súng vào người một đứa, lảy cò. Thằng kia bắn sượt qua tôi. Sự cố gắng hết sức bình sinh này giật bật máu ra khỏi phổi. Tôi có thể hít thở dễ dàng hơn và bắt đầu chạy dọc theo chiến hào. Khuất sau một lối rẽ, thấy Trung uý Schlager ngồi xổm giữa một nhóm xạ thủ. Họ chạy đến bên tôi. Vài tên Anh, đang băng qua chiến địa, dừng ngay lại, dùng khẩu súng máy Lewis nhắm bắn chúng tôi. Chỉ trừ tôi, Schlager và hai người nữa thoát chết, còn tất cả đều ngã gục. Schlager, cận nặng lại để mất kính, sau này, kể lại cho tôi nghe rằng: Lúc đó, anh ta chẳng nhìn thấy gì cả, ngoài cái túi tài liệu của tôi cứ nhấp nhổm lên xuống trước mắt. Còn tôi, vết thương tuôn máu đầm đìa lại cho tôi nét phóng khoáng và sự nhẹ nhàng của cơn say; tôi chẳng còn gì để lo lắng nữa cả, ngoài viễn cảnh sẽ phải ngã xuống quá sớm.

Cuối cùng, chúng tôi cũng đến được một vùng đất đắp cao, hình bán nguyệt, phía bên phải của Favreuil; nửa tá trung liên khạc từng tràng lẫn lộn vào cả ta lẫn địch. Chắc ở đây phải có lối thoát, hay ít nhất, một ổ kháng cự trong vòng vây kẻ thù. Vận may đã dẫn chúng tôi đến đây. Tạc đạn địch rơi giập vào cát trên lũy phòng thủ, sĩ quan gào lệnh, lính giận điên, chạy đi chạy lại như những cơn lốc. Một hạ sĩ quan cáng thương của đại đội 6 giật tung áo khoác và khuyên tôi nằm ngay xuống, nếu không muốn bị cạn sạch máu trong chốc lát. Rồi người ta cuốn tôi vào một tấm vải lều và lôi dọc theo ven làng Favreuil. Vài binh sĩ đại đội tôi và đại đội 6 đi theo hộ tống. Ngôi làng đã lúc nhúc lính Anh, và không thể tránh khỏi chuyện chúng núp bắn bọn tôi từ rất gần. Những viên đạn bập sâu vào thân người. Anh cáng thương của đại đội 6 nắm góc sau tấm vải lều bị bắn ngay vào đầu. Tôi lăn xuống theo anh ta. Binh sĩ của tôi nhào sấp xuống đất, và, giữa những lằn roi đạn quất, họ bò dần về vùng đất trũng gần nhất. Còn trơ lại một mình trên trận địa, bị cột chặt vào tấm vải lều, gần như lãnh đạm, tôi đợi một viên đạn đến để kết thúc cuộc phiêu lưu thú vị này. Vậy mà, ngay cả trong tình huống tuyệt vọng, tôi cũng không bị bỏ rơi; lính vẫn trông chừng và lại gắng sức cứu tôi. Nghe tiếng Binh nhất Hengstmann, một anh chàng cao lớn tóc vàng vùng Saxe Hạ, nói sát bên tôi: «Tôi cõng Trung uý trên lưng nhé! Nhất chín, nhì bù thôi!» Khổ thay, chúng tôi không thoát nổi; ven làng, bao nhiêu là súng chĩa vào chúng tôi. Hengstmann xoải chân chạy, còn tôi quặp hai tay vào cổ anh. Ngay tức khắc, súng nổ từng tràng, nghe to như khi ta đứng gần những bia tập bắn một trăm thước trong xạ trường. Nhảy được vài bước, một tiếng rít sắc mảnh vút trúng đích, Hengstmann ngã xuống nhẹ nhàng dưới thân thể tôi. Anh ngã xuống không gây một tiếng động, nhưng tôi có cảm tưởng: Cái chết đã chụp lấy Hengstmann ngay trước cả khi chúng tôi chạm đất. Tôi gỡ mình ra khỏi đôi tay vẫn còn nắm chắc của Hengstmann, thấy một viên đạn đã xuyên qua nón sắt và hai bên thái dương. Người lính anh dũng này là con trai một giáo chức ở Letter, gần thành phố Hanovre. Ngay lúc bắt đầu có thể đi đứng trở lại được, tôi đã tìm đến gia đình và kể lại cho họ nghe về những giây phút cuối của anh.

Vậy mà, lại thêm một người nữa tìm cách cứu tôi. Ðó là Strichalsky, trung sĩ cứu thương lưu động. Anh vác tôi lên vai, và, trong khi lại thêm một tràng đạn nữa veo véo ngang tai, chúng tôi đã thoát được đến một hố nấp gần đấy. Ðêm xuống. Ðồng đội tìm được tấm vải lều khác và khiêng tôi qua một mảnh đất chết, nơi lúc xa lúc gần, nổ bùng lên những ngôi sao sáng rỡ tua tủa đỉnh nhọn hoắt. Ở đó, tôi đã trải qua cái kinh nghiệm khủng khiếp khi cảm thấy mình phải co quắp người lại để thở. Một người hút thuốc đứng cách mười bước cũng làm tôi nghẹt thở. Cuối cùng, chúng tôi cũng đến được một trạm cấp cứu, nơi bác sĩ quân y Key, bạn tôi, đang lo giải phẫu. Anh pha cho tôi một ly nước chanh ngon lành và chích một mũi morphine để gây mê.

Ngày hôm sau, mọi việc dần dần trở lại bình thường. Cuộc rượt đuổi điên cuồng theo xe cứu thương bắt ý chí tôi phải khứng chịu sự thử thách cuối cùng, đầy cam go này. Rồi tôi được chuyển qua tay các nữ y tá, được đọc tiếp quyển Tristram Shandy, bị gián đoạn lúc lệnh tấn công được ban ra. Sự uỷ lạo tinh thần đã an ủi tôi trong giai đoạn bệnh tái phát, đặc trưng của những vết thương ở phổi. Binh lính và sĩ quan cao cấp của sư đoàn ghé thăm tôi. Có điều, tất cả những người tham gia vào cuộc tấn công ở Sapignies, hoặc đều đã chết, hoặc như Kius, bị quân Anh bắt làm tù binh. Khi những quả tạc đạn đầu tiên của kẻ thù, lấn dần đất và rơi xuống Cambrai, ông bà cụ Plancot gửi cho tôi một lá thư với lời lẽ dễ thương, một hộp sữa đặc, mà họ nhịn, để dành cho tôi, và quả dưa gang duy nhất hái được trong vườn nhà. Viên sĩ quan tùy tùng cũng hết lòng như những người tiền nhiệm; anh luôn ở sát bên tôi, dù không được cấp lương thực và phải mò đến bếp trại xin ăn.

baothep2-03

Ðể xua đuổi nỗi buồn chán khi phải nằm liệt giường, người ta phải tự tìm cách để giải trí; vì vậy, một ngày kia, tôi giết thì giờ bằng cách đếm cho bằng hết các vết thương. Kiểm điểm lại cái mớ hỗn độn nào vết bầm, nào đường rạch, tôi thấy mình bị ít nhất là mười bốn vết thương, gồm năm viên đạn súng trường, hai mảnh trái phá, một viên phi đạn, bốn miểng lựu đạn, thêm hai mảnh vỡ của đạn súng trường nữa, đã để lại cho tôi, tính cả lỗ vào lẫn đầu ra, một tổng số chính xác hai mươi vết sẹo. Trong cuộc chiến này, nơi lửa đạn phóng tuôn vào khoảng không nhiều hơn là nhắm trúng vào con người, vậy mà bản thân tôi đã thành công trong việc thu hút từng ấy thứ vào da thịt mình. Vì thế, tôi không ngại ngùng chút nào khi đeo lên quân phục Huy chương vàng Thương binh, được trao tặng trong những ngày này. Hai tuần sau, tôi nằm lơ lửng trên một chiếc giường treo trong chuyến xe lửa tải thương. Ðất Ðức bắt đầu nhuốm sắc thu. Tôi sung sướng được xuống thành phố Hanovre [9], ngụ tại tu viện dòng Clémentines. Trong bao nhiêu người tức tốc tìm đến thăm, tôi hết sức vui mừng được gặp lại em trai; chú cao hơn sau lần bị thương, nhưng phần thân phải, bị hủy hoại nhiều, đã không tăng trưởng được. Bạn đồng phòng với tôi là một phi công trẻ của phi đội Richthofen, tên Wenzel, có thân thể cao lớn, mang dáng dấp phong trần, vóc dạc mà đất nước chúng tôi không ngừng sản sinh. Anh đã làm rạng danh câu châm ngôn của phi đội: «Không bị thủng, nhưng đâm!» và trong các cuộc không chiến, đã bắn hạ được mười hai đối thủ, trước khi bị chiếc chót bắn gãy xương cánh tay. Cùng với anh ta, em trai tôi và vài người đồng đội nữa, đang đợi tàu lính, tôi tổ chức ăn mừng buổi xuất viện đầu tiên ở câu lạc bộ sĩ quan của cựu trung đoàn vệ binh thành phố Hanovre. Vì mọi người nghi ngờ vào khả năng chiến đấu của chúng tôi, nên chúng tôi phải phục hồi danh dự bằng cách trèo lên một chiếc ghế dựa khổng lồ từ nhiều phía khác nhau. Thật xui xẻo: Wenzel bị gãy tay, và sáng hôm sau, tôi nằm bẹp trên giường, sốt cao đến bốn mươi độ, rồi còn tệ hơn nữa: Khúc đồ nhiệt độ cứ tấn công mãi về phiá hồng tuyến, nơi mà vượt qua đó, đến ngay cả Esculape [10] cũng đành bó tay. Khi ấy, người ta mất đi khái niệm về thời gian; trong khi các nữ y tá tìm cách hồi sinh, tôi nằm dài, đắm mình vào từng cơn mê sảng đầy những điều thú vị.

Trong khoảng thời gian đó, vào ngày 22 tháng 9 năm 1918, Trung tướng von Busse gửi cho tôi một bức điện tín với nội dung như sau: «Ðức Hoàng thượng tưởng thưởng Trung uý Huân công Bội tinh [11]. Ðại diện cho toàn thể sư đoàn, tôi gửi đến Trung uý lời khen ngợi nồng nhiệt».

[…]

Ernst Junger

Cổ Ngư dịch