Menu Close

Nguyễn Phan Thịnh và những đôi mắt nhân chứng

Nhà thơ Nguyễn Phan Thịnh sinh năm 1943 tại Hà Nam, theo gia đình di cư vào miền Nam năm 1954. Trước 1975, ông đã xuất bản những thi tập: Hư ngôn (in typo, Huế, 1969) và Mơ một sáng mai hồng (in ronéo, Phan Rang, 1/1975); sau 1975: Lãng mạn đời trăng (thơ in chung, nxb Cà Mau, 1989) và Tình ca mưa (thơ, nxb Thanh Niên, tp.HCM., 2002)

Nguyễn Phan Thịnh đã vĩnh viễn ra đi vào sáng Chủ Nhật 27 tháng 5 năm 2007 tại tư gia ở Sài Gòn.

Sau đây là bài viết của Phùng Nguyễn về Nguyễn Phan Thịnh. Cả hai người đều là chỗ thân tình của người viết.  Phùng Nguyễn cũng đã ra đi, và những đôi mắt nhân chứng khép lại. Dẫu vậy, những trang viết của anh em vẫn còn đó, và những bất hạnh oan khiên của một thời còn ghi dấu để mọi người cùng suy ngẫm.

NGUYỄN & BẠN HỮU

 

Phùng Nguyễn
Phùng Nguyễn

Tôi sẽ không hề gặp anh nếu không có chuyến về vội vã thăm quê hương, lần thứ hai sau hơn hai mươi năm lưu xứ. Nơi gặp gỡ: một quán ăn ở gần khu chợ Tân Ðịnh. Tôi đã có dịp liên lạc với anh trước đây trong thời gian cộng tác ngắn ngủi với tạp chí Hợp Lưu ở cương vị chủ biên. Sau này, mối dây liên lạc được thiết lập trở lại, thường xuyên và bền chặt hơn qua tạp chí mạng damau.org ngay từ những số đầu tiên. Anh nằm trong số rất ít bạn bè ở VN được thông báo về chuyến đi của tôi.

Quán vào những đêm cuối năm khá đông khách. Anh ngồi ở chiếc bàn nhỏ tranh tối tranh sáng gần lối vào, chắc là để dễ quan sát khách đến. Anh nhận ra tôi không mấy khó khăn, có lẽ nhờ vào bộ dạng ngơ ngơ ngáo ngáo của tôi. Trong số những người mà tôi có cơ duyên được gặp trong chuyến đi này, anh trông có vẻ khắc khổ nhất. Cao, gầy, tiều tụy. Và đôi mắt của người đã nhìn, đã thấy, và đã sống những điều mình nhìn thấy. Ðôi mắt của người làm chứng.

Những người bạn khác chưa đến, họ bận tham dự một cuộc hội họp nào đó. Nhưng không hề gì, điều này giúp chúng tôi có được một khoảng thời gian cho riêng mình. Câu chuyện bắt đầu dễ dàng và sôi nổi. Xuyên qua anh, tôi hiểu được thêm rất nhiều về những nỗi niềm mà giới viết lách miền Nam xuất hiện trước và sau 1975 đã gánh chịu trong hơn một phần tư thế kỷ qua trên chính đất nước mình. Những trù dập, những dọa dẫm, những phân biệt đối xử dưới nhiều hình thức. “Như vết thương không có cơ hội kéo da non,” anh ví von. Tôi cũng được nghe anh chia sẻ cái nhìn khá nghiêm khắc về những “hoạt động” và ”thành quả” của tạp chí Hợp Lưu. Không hề có những nỗ lực hòa giải hòa hợp nào hết, ít nhất là ở trong nước, anh khẳng định. Tiếp đó là cuộc thảo luận về khả năng “vượt biên giới” của Internet. Có lẽ đây là đề tài mà chúng tôi dừng lại lâu nhất trong quãng thời gian có được. Anh có vẻ quen thuộc với đặc tính và hiệu ứng của weblog và các nhu liệu mang tính xã hội khác.

Trong đêm trước hôm rời Sài Gòn, tôi có cơ hội gặp lại một số anh em. Ðó là một buổi tối vui, chỉ tiếc anh không đến được. “Tiếc quá, tôi bị cái bao tử nó hành…” anh cho biết trong điện thoại. Vào lúc đó, tôi không biết chắc anh đã biết gì về tình trạng nguy kịch của mình hay chưa. Tôi chỉ biết mình đã tiếc vô cùng không gặp được anh thêm một lần nữa.

    chúng ta nói chuyện văn chương

    những websites, blogs, một số tác giả

    một số bài thơ, văn xuôi

    một số quan điểm sáng tạo trong ngoài

    và tất nhiên chúng ta nói đến đời sống

    đến hợp lưu, hòa hợp hòa giải

    những cách nhìn khác nhau

    những lập trường khác nhau

    và thế là dù chung một khát vọng giống nhau

    chúng ta nhìn ra nhiều vấn đề khác biệt

    chúng ta giống nhau rất nhiều

    nhưng cũng khác nhau không ít

    …

Ở trên là một vài đoạn trong “Lời Chúc Trước Giao Thừa” tôi nhận được ít hôm sau khi trở lại Hoa Kỳ. “Chắc không cần phải đề tặng,” anh viết. Tất nhiên là không cần, anh Nguyễn Phan Thịnh thân mến! “Chiến Tranh, Những Ðiều Chưa Nói” và “Hoà Âm Quỷ Ðiệu” là hai bài thơ cuối cùng tôi nhận được từ anh, dành cho damau.org chủ đề Chiến Tranh. “Hòa Âm Quỷ Ðiệu,” theo lời dặn dò của anh, được đăng tải dưới bút hiệu Trần Lý Nhiên Ðăng. Theo dự tính, bút hiệu này sẽ được dùng cho những tác phẩm mà nội dung và cung cách diễn đạt không cần thiết phải mang tính dè dặt, trông trước ngó sau vì an nguy của bản thân và gia đình. Sự dè dặt bây giờ đã không còn cần thiết cho cá nhân anh nữa.

Nguyễn Phan Thịnh
Nguyễn Phan Thịnh

Tin anh ra đi đến trước hết từ họa sĩ Rừng. Sau đó là một điện thư ngắn của Thận Nhiên và bản tin của tienve.org từ Hoàng Ngọc-Tuấn. Rõ ràng, anh có được sự quan tâm của bạn bè. Anh đã để lại trong họ, những người ở lại, một hay nhiều điều đáng ghi nhớ.

Với tôi, cùng với những bài thơ của anh, đó là đôi mắt. Mệt mỏi và tiều tụy nhưng, ngay cả trong cái tranh tối tranh sáng của quán nhậu đêm cuối năm, thỉnh thoảng lại sáng lấp lánh những điều muốn gởi đến người đối diện. Những điều đã sống qua, đã nhìn, đã thấy, đã ghi lại. Ðôi mắt làm chứng của một thời nhiễu nhương.

Bây giờ thì đôi mắt anh đã khép lại. Nhưng những điều anh đã viết xuống, trước và sau khi chiến tranh chấm dứt, dưới một hay nhiều cái tên, sẽ còn đó, lấp lánh trên cao, gởi cái nhìn phán xét xuống những thế lực của trù dập, của bất công, của trá ngụy. Nhìn xuống từng ngày, từng tháng, từng năm. Ðôi mắt nhân chứng nay đã trở nên bất khả xâm phạm của Nguyễn Phan Thịnh. Của những Nguyễn Phan Thịnh.

PN 05.29.07