Khi miền Tây hoang dã được mở mang, với thú hoang, người da đỏ và các băng cướp giang hồ, thì những khẩu súng trường nhồi thuốc nổ quyết định sự tồn tại của người Mỹ trắng. Những súng đó được chế tạo ở Pennsylvania, gọi là Kentucky rifle, là loại súng dài, nòng có rãnh xoắn, dùng để tiêu diệt sinh lực địch ở khoảng cách gần. Súng bắn từng phát một.
Trước đó vào thế kỷ 14, những khẩu súng trường đầu tiên nòng dài được đỡ bằng một cành cây, nhồi thuốc nổ vào nòng, cuối nòng có lỗ hổng matchlock, một dây cháy chậm châm vào, thuốc nổ cháy nén đẩy hỏa lực và đạn chì tròn bay ra làm sát thương. Súng được gọi là muskets. (Bạn hẳn biết qua từ musketeer, 3 chàng Ngự lâm pháo thủ ở Pháp.) Tại Việt Nam, súng hỏa mai là thứ vũ khí phổ dụng kể từ thế kỷ 16. Ca dao cũng ghi lại hình ảnh người lính thú:
“Ngang lưng thì thắt đai vàng
Ðầu đội nón dấu vai mang súng dài
Một tay thì cắp hỏa mai
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền.

Khi những người di dân đầu tiên đến Jamestown, Virginia năm 1607, những cây súng musket nòng dài là vật bất ly thân trong ngày đầu lập quốc. Họ mang theo khi cày cấy, phá rừng nhằm bảo vệ chống thú hoang, kẻ địch và ngay cả đề phòng người trong nhóm… Các cuộc đụng độ với thổ dân đã làm người da đỏ bản xứ kinh hoàng với các “cây sấm bằng sắt” trên tay người da trắng, sau tiếng sét là một viên đạn bằng chì nhỏ bay ra làm vỡ đầu, rách da, chảy máu gây thương tích từ xa, nơi mà các ngọn lao, cung tên không phóng tới được. Tuy thế các thổ dân da đỏ đã thấy điểm yếu của cây súng. Họ dụ vài người lên trước khiêu chiến, đạn nổ, có súng bị vỡ nòng, có súng bị thuốc ướt không nổ, tầm bắn không chính xác… Trong khi những người Mỹ trắng còn đang lúng túng nạp đạn thì từ các cánh rừng, người da đỏ gan dạ lao ra nhanh như chớp với một rừng tên. Cuộc chiến đấu thật khó khăn cho người Mỹ trắng.
Những khẩu súng musket từ Châu Âu đó đã được người Mỹ chế tạo, cải tiến càng ngày càng hoàn thiện. Các nòng súng được xoáy rãnh xoắn, làm cho viên đạn được chính xác và bắn xa hơn. Rãnh xoắn gọi là rifling, súng trường được gọi là rifle muskets. Tiếp đó súng được cải tiến có bộ phận lẫy cò, mở nắp thuốc súng và mồi đá lửa cùng một lúc. Người Việt gọi là súng kíp. Kíp là viên đá lửa đập vào mặt kim loại, làm cháy thuốc nổ. Lửa được dẫn qua lỗ nhỏ vào khối thuốc chính. Có nắp đậy thuốc súng, chỉ mở ra khi bấm cò để đánh lửa, hạn chế ẩm. Súng trường trở thành vũ khí sát thương hữu hiệu trong vòng gần 200m. Tuy vậy có nhiều bất tiện khi phải nhồi thuốc súng, nạp đạn chì, phải mất gần 1 phút. Các bộ binh phải dàn hàng ngang làm bức tường người đối phó với các kỵ binh hung hãn, tránh không bị chọc sườn, phá thủng đội hình. Họ cùng nhau bắn để gia tăng hỏa lực và độ sát thương. Với các súng trường này, thật khó khăn hơn khi phải nhồi thuốc súng, nạp đạn trên lưng ngựa và bắn chính xác, nhất là chiến đấu khi trời mưa…
Khi cuộc cách mạng giành độc lập chống lại mẫu quốc Anh 1776, người Pháp đã giúp đỡ bằng những khẩu súng kíp trong những ngày đầu, các khẩu súng kíp của Pháp đã được bắt chước và chế tạo rập khuôn.Và súng Model 1795 Springfield cho bộ binh ra đời tại Mỹ. Khi vào cuộc chiến thì có đến 27 hợp đồng với cơ sở tư nhân để sản xuất súng. 40 ngàn súng được đặt hàng, giá 1 súng là 13.50 đô. Lần đầu tiên quân đội Mỹ làm hợp đồng với cơ sở tư nhân. Súng trường 1795 Springfield được dùng cho đến cuối cuộc chiến năm 1812.

Cuộc cách mạng công nghiệp góp phần thúc đẩy kỹ nghệ chế tạo súng đạn. Ở Harper’s Ferry, West Virginia là hãng chế tạo súng đầu tiên ở Mỹ. Nhờ vào nguồn nước cho các máy hơi nước hoạt động dọc West Virginia. Sau đó là Springfield, Massachusetts. Sự hợp tác giữa tư nhân, các nhà đầu tư và chính phủ trực tiếp tham gia làm thúc đẩy công nghệ quốc phòng. Thomas Jefferson đã ban lệnh dùng tiền liên bang cho các nhà máy sản xuất vũ khí. Chính nhờ những khẩu súng chế tạo tại Mỹ (bắt chước từ Châu Âu) một số cướp được từ quân Anh, một số được mua từ Pháp, mà các thuộc địa đã đánh bại mẫu quốc Anh hùng mạnh để lập nên một Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Vào thời nội chiến Bắc-Nam thì hệ thống nạp đạn và thuốc nổ ở phía trước đã được cải thiện. Súng 2 nòng đã đáp ứng phần nào nhu cầu nạp đạn nhanh cho săn bắn và sát thương. Tuy vậy súng rất nặng và thiếu độ chính xác. Phải nhờ đến sáng kiến súng ngắn với ổ đạn quay của Samuel Colt. Samuel Colt là một chú bé ham thích chơi với súng và thuốc nổ ở Connecticut. Ở lứa tuổi thiếu niên Colt đã nghĩ tới việc chế tạo súng ngắn nhưng không có tiền. Cho đến năm 1836, ở tuổi 22, Colt dành dụm tiền và cùng vài nhà đầu tư đăng bạ cho khẩu súng ngắn revolver có 5 viên đạn. Colt bắt đầu sản xuất súng ở Paterson, New Jersey, hy vọng sẽ nhận được đơn đặt hàng kếch xù từ chính phủ. Thế nhưng súng Colt lúc ấy mỏng manh, nòng nhỏ, đạn nhỏ và phải tháo ổ đạn để nạp đạn. Quân đội Mỹ không ưa thích sau khi thử. Công ty Colt không có đơn đặt hàng và phá sản vào năm 1842. Trong khi ấy quân đội nước Cộng hòa Texas đã tìm thấy khẩu Colt và yêu thích nó. Dù đắt đỏ nhưng chúng được mua 1 ngàn khẩu với giá 17 đô một khẩu cho hải quân và bộ binh trong cuộc chiến Mỹ – Mễ suốt 2 năm 1846 – 1848. Sau đó chúng được giao cho Biệt động Texas Rangers, những chiến binh thường xuyên giáp mặt với cung tên người da đỏ. Suốt 4 năm nội chiến, hãng sản xuất súng Colt đã cung cấp súng cho cả 2 miền Nam – Bắc. Súng Colt đã chứng tỏ tiềm năng quyết định chiến thắng của súng ngắn revolver. Miền Tây hoang dã và nhất là Texas đã trở thành vùng đất của các tay súng. Khi mà luật lệ và quân đội của một đất nước còn non trẻ, các băng đảng tội phạm tung hoành. Các cuộc đấu súng hầu như xảy ra thường ngày. Khẩu súng Colt gọn nhẹ đeo bên hông của các Biệt động Texas được gọi là Colt Peacemaker – Kẻ gìn giữ hòa bình. Súng Colt được xem là “khẩu súng làm nên chiến thắng của Miền Tây”. Samuel Colt đã hoàn thiện khẩu súng lục ổ quay, bắn được nhiều phát mà không cần nạp đạn mỗi lần. Ðiều quan trọng là Colt đã dựa vào cách mạng công nghiệp để sản xuất hàng loạt các cơ phận tiêu chuẩn, thay đổi và lắp ráp dễ dàng. Ðóng góp đầy sáng tạo của Colt cho ngành công nghiệp vũ khí đã được các nhà sử học vũ khí xem là: “Sự kiện định hình nên vận mệnh của các loại súng Mỹ.” Giữa những năm 1850 khi hết thời hạn đăng bạ (patent) của Colt thì hàng loạt các nhà sản xuất vũ khí lao vào chế tạo súng, bao gồm Remington, Starr, Whitney và Manhattan… Từ đó súng có ổ đạn xoay trở thành vũ khí chính trong cuộc nội chiến. Và sau đó Wesson và Smith đã tham gia chế tạo viên đạn có chứa thuốc súng, ổ đạn được nạp nhiều viên và súng ngắn nòng .22 caliber được xem là tổ tiên của các súng được dùng cho đến ngày nay.
Cuộc nội chiến Nam Bắc cũng là thời kỳ cho súng đại liên Gatling và Sharps Rifle ra đời. Súng Gatling dựa theo tên nhà sáng chế Richard J. Gatling, có nhiều ổ đạn, quay bằng tay vòng quanh một trục có 6 nòng đến 10 nòng, trong một phút bắn ra 400 viên đạn .58 caliber. (Ðầu thế kỷ 20 súng đại liên cải tiến thành một nòng, được gắn trên máy bay trực thăng và sử dụng trong chiến tranh Ðông Dương.) Súng trường Sharps Rifle được Christian Sharps thiết kế năm 1848, bắn chính xác từ 500m đến 900m làm vũ khí đắc dụng cho các xạ thủ bắn sẻ sniper. Cùng với đạn, bột thuốc súng không khói được sử dụng làm tăng hiệu năng sử dụng súng, xạ thủ bắn xa hơn, dễ dàng và chính xác, cũng như bảo trì lau chùi. Cùng thời gian 1900 ở Ðức, Georg Luger phát minh ra súng ngắn có băng đạn tự động gắn ở tay cầm, thì Colt đã áp dụng thiết kế hệ thống lên đạn tự động của Browning để cho ra đời súng tự động .38 caliber Model 1900. Với một vài cải tiến nhỏ, súng Colt model 1911 nhanh chóng được quân đội Mỹ sử dụng và tiếp tục dùng cho đến khi tham chiến ở Việt Nam. Súng bán tự động ra đời, mỗi lần bóp cò là bắn một viên đạn, để phân biệt với súng tự động liên thanh, bóp cò ra hàng loạt đạn.

Sau khi miền Tây đã được chinh phục và tàn cuộc nội chiến thì súng ống được chế tạo dùng phổ biến cho săn bắn. Từ những súng trường nòng lớn cho các con bò rừng, gấu xám đến các súng nhỏ dành cho con vịt nước… Sau thời kỳ tái thiết đất nước thì 2 cuộc Thế Chiến nổ ra. Nền kỹ nghệ sản xuất vũ khí hiện đại với sự đầu tư dồi dào của chính phủ liên bang, nước Mỹ ngày càng hùng mạnh và cung cấp phần lớn súng đạn cho các cuộc chiến khắp Âu, Á. Ngay cả viện trợ cho Nga Sô nhằm chống lại Ðức Quốc Xã.
Nhìn lại lịch sử nước Mỹ để thấy rằng cây súng gắn bó theo năm tháng lập quốc và mở mang. Cây súng là vật bất ly thân của người Mỹ tiên phong về miền Tân Thế Giới, của chàng cao-bồi về miền Viễn Tây, của những phụ nữ yếu mềm trong vùng đất mới xa lạ đầy bất trắc hiểm họa. Cây súng bảo vệ sự sinh tồn và phát triển của đất nước cũng như làm nên sự phồn vinh của nền kinh tế. Cây súng một thời là phương tiện giải quyết các vụ tranh chấp từ danh dự cá nhân đến nền độc lập cho các thuộc địa, cũng như bảo vệ cho sự tự do cá nhân. Chính vì giá trị tối ưu này mà Tu chính án thứ hai của Hiến Pháp Hoa Kỳ ghi rõ: “Vì một lực lượng dân quân quy củ là cần thiết cho an ninh của một đất nước tự do, quyền của người dân được nắm giữ và mang vũ khí sẽ không thể bị xâm phạm.” Một trong những điều kiện mà phe Miền Nam khi thua trận và chấp nhận đầu hàng trong cuộc Nội Chiến là các binh sĩ miền Nam được quyền giữ lại khí giới.
Bạn sẽ không lấy làm lạ khi thấy những cư dân Texas ngày nay bên hông lủng lẳng khẩu súng lục trên đường phố. Họ rất thân thiện, tốt bụng và hiền hòa. Tuy vậy xin bạn nhớ câu: “Don’t mess with Texas” nhé! Không hẳn chỉ là đừng xả rác ở Texas, mà liệu hồn đấy!
SB