Ngọc Dũng là một họa sĩ tài ba của Saigon, nổi tiếng từ thập niên 50, cùng lúc với Duy Thanh, Thái Tuấn. Tranh sơn dầu của ông từng được triển lãm nhiều lần tại Saigon. Là một họa sĩ thân thiết với giới chữ nghĩa, đã từng làm thơ. Từ thập niên 60, Ngọc Dũng đã góp phần thực hiện các tạp chí văn học như Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Văn Nghệ. Ông cũng là người vẽ hí họa ký tên TUÝT, liên tục nhiều năm trên nhật báo Chính Luận, trước 1975.
Ðinh Cường có nhiều thân tình với Ngọc Dũng: cùng trong giới họa, những năm tháng cuối đời cùng định cư ở Virginia. Trong sổ tay của Ðinh Cường còn ghi:
‘’Sau cơn mưa, khói mặt đường bốc lên
trưa mùa hè buồn bã
tôi trở về, sau khi đến thăm
người họa sĩ nằm bệnh
mấy ngón tay tài hoa
miết trên mặt bàn
NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT ‘’ (5 tháng 7, 2000)
Hai ngày sau thì Ngọc Dũng mất. 7/7/2000. Vào lúc 3 giờ 25 chiều. Thỉnh thoảng buổi chiều, tôi hay nhớ anh. Anh hay gọi tôi qua uống với anh ly Whisky, anh tự tay pha chế, vừa độ. Có chiều anh lại ghé ngang tôi rủ qua quán cà phê Starbucks ngồi. Nhà tôi và nhà anh gần nhau, chỉ cách mấy con đường. Mất anh, tôi thiếu vắng vô cùng một người bạn vong niên về nghệ thuật, nơi thành phố này.
Anh thường kể cho tôi nghe về những trái nhãn Hưng Yên, quê anh (Ngọc Dũng tên thật là Nguyễn Ngọc Dũng, sinh ngày 16-10-1931 tại Hưng Yên) Anh rất mong muốn về thăm, mà không kịp nữa…
Anh là bạn mày, tao với Mai Thảo. Tôi và các bạn vẽ tranh của tôi là lứa sau anh. Ðã đến chơi với anh từ những năm 60 ở Sài Gòn. Nhớ là Nguyễn Trung và tôi thường đến thăm anh ở căn nhà có cây bông gòn trước sân, trong con hẻm nhỏ đường Trương Minh Giảng. Lúc anh đang chuẩn bị cho cuộc triển lãm một mình, với 50 bức tranh sơn dầu đầu tiên ở Sài Gòn (khai mạc ngày 1 tháng 5 năm 1961 tại phòng Thông Tin Ðô Thành, 165 đường Tự Do, Sài Gòn) trong 10 ngày. Sau đó, anh ra triển lãm ở Huế, cũng tại phòng Thông Tin và ở nhà Quách Thoại bên bờ sông An Cựu. Thời điểm đó, một phòng tranh vẽ mới mẻ như vậy là một luồng gió lạ cho nghệ thuật của miền Nam. Chúng tôi đang ở những năm cuối cùng của Trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật, nhưng cũng đã tham dự tranh trong các cuộc Triển Lãm Mùa Xuân với cách tìm tòi mới lạ đó.
Anh cùng Duy Thanh học ở lớp dạy vẽ tư trên lầu Hội quán Trí Tri, phố Hàng Quạt, Hà Nội, gồm các thầy dạy vẽ giỏi và nổi tiếng đã tốt nghiệp từ trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Ðông Dương như Lương Xuân Nhị (1914-2006) và Nguyễn Tiến Chung (1914-1976), Các anh học nhóm do ông Chung hướng dẫn.
Anh kể, cũng đi vẽ ngoài trời, vẽ cảnh trong Văn Miếu, chùa Láng, đền Voi Phục, phố Hà Nội, và nhất là hý họa. Ðó là phương pháp căn bản nhất. Vẽ xong, cuối tuần, có khi mời những họa sĩ giỏi khác đến xem và cho ý kiến, như Bùi Xuân Phái… nên sau này anh thường thích xem lại tranh của các ông Chung, ông Phái… Anh rất quý những người thầy. Anh thường nói, chữ Lễ là quan trọng. Anh chơi với bạn, dù nhỏ tuổi hơn, luôn hiền hòa đằm thắm là vậy.
Từ bước căn bản đầu tiên ấy, cộng với cách nhìn trong nghệ thuật hội họa là nhìn và nhìn thấy, chứ không là sao chép như thật. Những ý kiến chính xác của các bậc thầy cộng với tài hoa riêng và nhất là tâm hồn đã đưa những dessins, những tác phẩm hội họa của anh có một dấu ấn riêng, không nhầm lẫn được.
“Thái Tuấn, cùng Duy Thanh và Ngọc Dũng đã tạo nên dấu mốc quan trọng đối với sinh hoạt hội họa ở Miền Nam, là một chuyển tiếp giữa những xung đột, va chạm từ nghệ thuật trước và sau điểm tựa lịch sử 1954…” (Huỳnh Hữu Ủy, Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại.- trang 67, VAALA xuất bản 2008)
Nói đến điểm tựa. Tôi lại nhớ anh, anh thường trang trí trên các chuồng chim (anh làm thành phố chim quanh vườn, mỗi chuồng chim nhỏ do anh tự đóng lấy, trang trí và rất nhiều chuồng chim thấy anh ghi 54-75 hoặc Phố Hiến-Hưng Yên 20-7-54 hoặc Hà Nội_Sài Gòn 30-4-75. Ðúng là những dấu mốc đáng ghi nhớ nhất…
Anh thương cây cỏ và chim chóc, anh nói trồng những khóm bông như vẽ một bức tranh vậy. Và những bầy chim có hay người xây nên thành phố thơ mộng cho chim đã bỏ dở dang một công trình của Hoàng Tử Bé. Anh luôn thơ mộng như tranh anh vậy.
Nhà thơ Viên Linh nhận định như sau về Ngọc Dũng và các họa sĩ một thời:
Có một lớp các họa sĩ tên tuổi của Việt Nam hầu như người nào cũng làm thơ, thế rồi cũng có một lúc (một lúc nào đó thôi), một số người làm thơ (và soạn nhạc) quay ra vẽ tranh.
Thời tiền chiến hội họa ta có những họa sĩ lẫy lừng, như Lương Xuân Nhị, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Phạm Quỳnh, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Phan Chánh; nhưng tôi chưa từng nghe các ông này làm thơ, chỉ sau 1954 thì tại Sài Gòn những họa sĩ Thái Tuấn Duy Thanh Ngọc Dũng (1931-7.7.2000) thảy đều làm thơ, đúng là “thi trung hữu họa,” trong thơ có họa.
Người nghệ sĩ cầm cọ, trong những lúc, những buổi không có sơn có giá vẽ bên mình, đã dùng thơ để phát biểu cho dễ, cho hợp lúc, hợp tình, mà nghệ sĩ đích thực nghệ sĩ từ tâm khảm thì vẽ hay viết cũng có thể một chín một mười, giới thưởng ngoạn chấp nhận được.
Thái Tuấn viết tạp bút, nghiêng về tiểu luận, Duy Thanh viết truyện ngắn cuộc sống hiện đại, riêng Ngọc Dũng làm thơ nhiều hơn cả trong ba người. Tôi đã đọc thơ anh từ những tờ tạp chí cùng làm với anh: Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong, Thế Kỷ Hai Mươi của Nguyễn Khắc Hoạch, và ít hơn, trên Sáng Tạo của Mai Thảo.
Chiêm bao
Nhưng hơi thở vẫn rì rào
Anh muốn hôn em như một giấc chiêm bao
Anh sẽ hôn em lên mái tóc các vì sao
Hôn rất khẽ
Em biết không
Buổi chiều ấy bơ vơ như gạch ngói
Từng phiến đá nhìn buồn
Khoảng rộng ấm dần môi kính vỡ
Khởi vào em như bánh xe lăn
Tiếng hát của mặt trời
Hãy gỡ đều cho sợi tóc dầy
Cùng một lần cho tiếng hát nhịp thấp xuống
Với dòng sông nước cuốn chảy mòn
Nước chảy cuốn mòn xô tới chân em
Từng dạ khúc
Và tiếng khóc nhỏ theo từng khúc một
Từng chút em từng giọt mưa mau.
Ðó là bãi cát trầm mình là tiếng động
Của một loài rêu mun
Từ đỉnh tháp
Bàn tay xòe hết không gian
Rồi úp mặt nhìn cùng suốt thân thể.
Ðó là sự hủy diệt của một chiều ánh sáng
Khi mặt trời sắp mọc khi mặt trời lặn xuống
Biển xô nhanh từng lớp cỏ dài
Ðó là sườn núi cô đơn và bí mật. 30.1.1961
NGUYỄN & BẠN HỮU
Tổng hợp: từ Đinh Cường và Viên Linh