Tên thật Võ Anh Tuấn. Sinh năm 1949 tại Huế, lớn lên vào Nha Trang. Năm mươi năm sau mới viết văn làm thơ. Trước 1975 là sĩ quan Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Hiện là kỹ sư điện tử ở Pasadema, CA.
Mặc dầu mới sáng tác những năm gần đây nhưng thơ và văn Vũ Hoàng Thư đã có cái dáng và hồn đặc biệt, mang sắc trời Tây phương hòa lẫn Thiền vị. Ðiều này cho ta mường tượng được rằng ở những năm dài trước lúc nở hoa, cất lên tiếng hát, Vũ Hoàng Thư đã miệt mài đọc và đắm hồn trong những tinh hoa vùng trời ảo diệu Ðông Tây. Có ảnh bóng nào của ông anh Thi Vũ ở đây. Kết quả là những trang viết của Thư ngày nay, tuy chưa nhiều nhưng đủ tỏa sáng.
Thơ của Vũ Hoàng Thư hòa lẫn hiện thực, hồi tưởng và mơ mộng, ngôn ngữ thơ có đôi nét sần sùi bên đường bay huyền ảo. Thơ ấy rất riêng của Thư không lẫn lộn với những nhà khác. Sau đây là một vài bài tiêu biểu. SAO KHUÊ
Ðêm cuối ở Nha Trang
đêm cuối ở nhatrang
vinpearl – viên ngọc trai việt nam
lóng lánh bằng đèn điện xa khơi hải đảo
tôi rữa vã mồ hôi
em gầy xanh trong từng hơi thở
căn nhà số ba mươi tám
tăm tích mơ hồ giữa cao ốc
như xoáy vòng lỗ hổng ký ức
tôi thấp lõm hụt hơi
đêm cuối ở nhatrang
biển vọng giữa tiếng nhạc từ quán sailing club trên đường duy tân
không, đường trần phú, anh xe thồ đính chính
tên ông tổng bí thư đầu tiên đảng cộng sản đông dương
tên ông nằm trong mọi thành phố việt nam
ông đã hất cẳng duy tân
ông vua chống pháp bị đày qua đảo la réunion
ông vua phải đi chỗ khác chơi
dù chống thực dân nhưng không thuộc giai cấp vô sản
đêm cuối ở nhatrang
em bé tật nguyền mời nài
hai ngàn đồng lon đậu phụng luộc
chú ơi… mua giùm…
tôi sẽ làm gì với hai ngàn đồng bạc việt
người ta vừa bố ráp hơn 500 khách xài thuốc lắc
trăm vạn đô la mỹ đốt đêm thâu
tại quán nhảy nằm sát bộ công an hà nội
đêm ma túy ngần lên ngàn gân máu mắt
trong thiên đường đỏ
này bé, em sẽ làm gì với hai ngàn đồng bạc việt ?
đêm cuối ở nhatrang
đèn xóm cồn không còn heo hắt
hãy kéo sập khu ghetto
xã hội chủ nghĩa tiến lên bằng những biệt thự đại gia
lầu ông yersin yên ngủ ngàn đời dưới lòng cao tốc
nối nhatrang và đồng đế
…
đêm cuối ở nhatrang
hàng phi lao còn sót lại
vi vút gào ký ức
gởi lại em một mùa xanh
khi tóc cùng màu như liễu
tôi sẽ đi như 32 năm trước
tôi sẽ đi vội vã
như một lần
có thật đã 32 năm?
Tháng 6, 2007 (trên đường Duy Tân xưa)
Bóng mờ
ở đây còn lại mùi hương
trầm em hay chỉ vô thường ghé chơi?
người đã xa
sậy lau gần
phù vân vây hỏi
nhân quần còn ai
mơ hồ gieo
bóng chưa phai
trong yên ắng gõ
chân dài phôi pha
ngàn mây trắng
vọng hương nhà
thuyền quyên bước
nhịp trường sa bỗng gần
có phải em trên đôi chân
rủ cơn mộng
ghé một lần giữa đêm
ngọt ban sơ
thủy thảo mềm
và tơ tóc quấn
dựng thềm dã hoang
hưng phấn khơi
đoạn rã hàng
trò vui con rối bắt quàng cuộc mơ
người đi khuất
một bóng mờ
vi lô ở lại chia bờ vực sâu
ngẫu nhiên đâu phải lần đầu
còn nghi hoặc hay lậm sầu đã thâm
Sinh nhật
gửi bác sĩ ÐHN
anh vốn
không
có ngày sinh?
tự vòng tròn
một chỗ thình lình ra
tìm điểm mốc
em khéo đùa
sinh là khởi
cơn gió lùa về không
Buổi sáng đọc email
buổi sáng
mail tới lai rai
lửng lơ chốn ảo
hai bài ngẫu nhiên
một thơ tình, một bài thiền
nhặt tinh mơ sớm
gợi phiền lụy xa
gọi bình minh
lạc dương tà
lượm thanh tân giữa xương hoa nhọc nhằn
mở cánh sen
nhớ thường hằng
nghe sương rụng nỗi khăng khăng vô thường
tự nhiên thôi
ở cuối đường
hoa cười mở nụ
mười phương nguyệt rằm
Tháng 10, 2014
Santa barbara
ngôn rời phố thị đìu hiu
ngữ tìm biển vắng đổ xiêu quách thành
1.
ở đây mù mịt thật là
ngày qua lạ mặt, sương là đà rơi
ở đây biển nối với trời
một màu vô sắc, từng lời trở cơn
2.
ở đây gió chạy không nhà
nghe hun hút nỗi đời qua dạo nào
ở đây lời lẽ lao xao
tôi về riêng rẽ tiếng chào nghe xa
3.
ở đây buồn rũ thị thành
theo ra phố vắng, chạy quành biển khơi
ở đây tôi ngó xuống đời
hư không gõ nhịp điệu cười cợt reo
S.B., Oct. 2002