Menu Close

Trần Hoài Thư

Trần Hoài Thư tên thật Trấn Quí Sách, sinh năm 1942 tại Ðà Lạt. Tuổi thơ thất lạc cha, theo mẹ sống khổ cực ở thành phố Nha Trang, có một thời gian sống trong cô nhi viện Hòn Chồng Bethlehem. Sau đoàn tụ với thân phụ mới theo học Quốc Học Huế, đại học Sài Gòn. Từ năm 1964-1966 là giáo sư trường trung học Trần Cao Vân tỉnh Quảng Tín (nay đã sát nhập lại vào Quảng Nam).

Năm 1967, nhập ngũ khóa 24 SQTB Thủ Ðức. Phục vụ tại đại đội 405 Thám kích sư đoàn 22 bộ binh trong 4 năm. Sau đó về làm phóng viên chiến trường ở vùng IV trong 2 năm. Ông đã từng bị thương 3 lần. Sau 1975, ông đi tù Cộng Sản hơn 3 năm. Năm 1980, định cư ở Mỹ, tiếp tục sáng tác. Nỗ lực lớn nhất của Trần Hoài Thư, và chắc chắn sau này sẽ được ghi vào lịch sử, đó là khôi phục di sản văn chương Miền Nam.

tran-hoai-thu

Trần Hoài Thư khởi viết từ năm 1960 về nhiều thể loại, trong đó có cả thơ. Về thơ, ông đã có những tập Thơ Trần Hoài Thư, Ngày Vàng, Nhủ Ðời Bao Dung, Ô Cửa, Quán… Và gần đây nhất: Vịn Vào Lục Bát.

Thơ Trần Hoài Thư, những bài sáng tác trước 1975, phản ảnh thực tại gai góc của chiến trường nhưng đôi khi cũng ửng lên ánh sáng và vẻ đẹp lãng mạn. Sau đây, chúng tôi xin gởi đến bạn đọc một vài bài thơ tiêu biểu của Trần Hoài Thư viết trong chiến tranh. SAO KHUÊ

 

quán sớm

 

Quán sớm cô hàng nhăn nếp lụa

Tóc còn vương vít lòng chiếu chăn

Nước sôi reo ấm gian nhà chật

Bếp lửa hồng. Gió tạt. Mùa đông

 

Gọi cốc cà phê un khói gió

Mấy thằng râu tóc chụm thanh xuân

Vách trống, sát vào nhau đỡ lạnh

Trời ngoài kia sương phủ mênh mông

 

Năm giờ. Thành phố còn im lặng

Những chuyến xe đầu run rẩy qua

Con đường sương khói hai hàng nến

Những nhánh cây đen đụng mái nhà

 

Năm giờ. Hết phép chờ xe hốt

Từ biệt cô từ biệt bạn bè

Từ biệt một ngày trai phóng đãng

Mai về trên ấy thiếu cà phê

 

trước giờ tiếp viện

 

Nửa đêm kẻng giục, quân ra trận

Kinh động cả lòng đêm tối bưng

Nhận lấy ba ngày cơm gạo sấy

Không buồn chỉ một chút bâng khuâng

 

Ðời ta là con số không vô tận

May trên đầu còn chiếc mũ rừng

Mũ nhẹ nên coi đời cũng nhẹ

Chiến tranh. Thì cũng tựa phù vân

 

Người lính sao anh còn ngái ngủ

Anh có lo gì một chuyến đi

Anh có mang theo lòng thống hận

Hay là cái nghiệp buổi sinh ly

 

Anh có buồn không, giữa cõi đêm

Mỗi lần xuống núi, về mông mênh

Lên xe, bỏ lại đồi thiên cổ

Bỏ trại gia binh lạnh ánh đèn

 

Thì đi, lầm lũi đi vô định

Ở cuối trời kia, vẫn cuộc chơi

Hỏi ông thượng sĩ Nùng, xin rượu

Cổ lai chinh chiến, kỷ nhân hồi …

 

từ biệt núi rừng

 

Trở lại đồng bằng xa núi thẫm

Dầm mưa Ðồng Tháp nhớ Trường Sơn

Qua sông điên điển vàng bên rạch

Lại nhớ về mùa hoa Ðơn Dương

 

Từ biệt núi rừng, vùng đất khổ

Những ngày bùn đỏ bám giày saut

Mà sao lại nhớ, cơn mưa nhỏ

Ướt tóc mềm người em Buôn Hô

 

Trở lại đồng bằng, không dám nhớ

Những hầm những hố những đêm đen

Mà sao vẫn nhớ nồi cơm sống

Khói bốc cay nồng buổi đóng quân

 

Từ biệt núi rừng không dám nghĩ

Những rừng cháy đỏ, những đồi ma

Mà sao cứ nhớ chùm lan dại

Giữa bãi hoang tàn vẫn nở hoa

 

Thôi nhé Trường Sơn xin bỏ lại

Ta về châu thổ lội qua Miên

Bỏ lại trên vai hòn núi nặng

Cho những bạn bè đồng đội anh em

 

eo chết

 

Ðịch cho trung đội qua eo chết

Hai bên sườn, đại liên đan nhau

Nổ. Nổ giòn.

Ðất đá kêu đau

Sủi bọt,

Khói bốc lên,

Bốn bề dội vào vách xám

 

Một hai ba, lộn, nằm co quắp

Còn lại, vẫn ào lên, ào lên

Ðừng bò! Ðừng bò!

Trung đội phó hét cuồng điên

Cỏ tranh bắt mồi cháy mạnh

Gió tạt, khói mù

Bốn bề khói rợp

Xé cay trên cặp mắt nổ tròng

Khắp bốn bề gào thét xung phong

 

Cao điểm chiếm rồi

Vui mừng quá độ

Mà sao, người truyền tin rơi lệ

Báo cáo trong tiếng mất tiếng còn

Về những thằng

bị kiến cắn ngủ yên (*)

 

(*): tử trận