Tạ Tỵ (1921 – 2004), tên thật là Tạ Văn Tỵ. Là một họa sĩ và còn là một nhà thơ, nhà văn Việt Nam. Ông sinh ngày 3 tháng 5 năm 1921 tại Hà Nội.
Từ khi còn là một sinh viên, Tạ Tỵ đã thành danh khá sớm. Năm 1941, nhờ nhận một giải thưởng tranh, ông được đến thăm kinh đô Huế.
Năm 1943, ông tốt nghiệp tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Và cũng năm này, bức tranh “Mùa Hè” của Tạ Tỵ đoạt một giải thưởng của Salon Unique.
Năm 1946, chiến tranh nổ ra giữa Việt Nam và Pháp, Tạ Tỵ cùng với nhiều hoạ sĩ Việt Nam khác, đã tham gia mặt trận Việt Minh chống Pháp và ông là người thầy dạy mỹ thuật đầu tiên trong Liên khu 3. Tác phẩm “Nhớ Hà Nội” năm 1947 (20- 25 cm) được Tạ Tỵ vẽ trong giai đoạn này.
Tháng 5 năm 1950, Tạ Tỵ rời vùng kháng chiến trở về Hà Nội. Ông viết cho một người bạn rằng “Cách suy nghĩ của tôi không hợp với kháng chiến sau mấy năm chung sống với họ”.
Bắt đầu từ đầu thập niên 1950, ngoài tài vẽ chân dung hí họa, ông còn sáng tác trên nhiều lĩnh vực khác, như: truyện, thơ, kịch bản, bút ký…
Năm 1951, ông triển lãm 60 bức tranh tại Hà Nội.
Sau 1954, ông vào Nam và sống ở Sài Gòn. Ở đây ông đã phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa với cấp bậc sau cùng là Trung tá trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị.
Năm 1956, ông triển lãm hơn 60 bức tranh đầu tiên tại Sài Gòn. Năm 1961, ông triển lãm lần thứ hai 60 bức tranh lập thể và trừu tượng cũng ở nơi đó.
Năm 1975, sau thời gian đi tù cải tạo, ông cùng vợ con vượt biển đến Malaysia và đến định cư tại Hoa Kỳ.
Trong thời gian sống tại nước ngoài, Tạ Tỵ lại tiếp tục sáng tác. Năm 2003 sau khi vợ ông qua đời tại Hoa Kỳ, ông quyết định trở về Việt Nam với ước vọng sống những ngày cuối cùng ở quê hương mình.
Vào 10 giờ sáng 24 tháng 8 năm 2004, Tạ Tỵ từ trần tại nhà riêng số 18/8 đường Phan Văn Trị, Quận 5, Sài Gòn, sau một cơn bệnh kéo dài do tuổi già, hưởng thọ 83 tuổi.
Tạ Tỵ là một nghệ sĩ đa tài. Ban đầu ông có vẽ sơn mài, cùng thời kỳ với những họa sĩ như Nguyễn Gia Trí, Lê Phổ, Nguyễn Tư Nghiêm… Nhưng ông được biết đến nhiều hơn cả khi đi theo trường phái tranh lập thể. Theo họa sĩ Trịnh Cung, Tạ Tỵ là người gắn bó và đi đầu trong phong cách hội họa lập thể ở Việt Nam từ thập niên 1940 đến 1960. Sang thập niên 1970, ông chuyển sang phong cách trừu tượng.
Tuy sống trong thời kỳ hai miền Việt Nam chia cắt, nhưng người ta không tìm thấy bóng dáng chiến tranh trong hội họa Tạ Tỵ. Một mảng tranh được công chúng biết đến nhiều là những bức ký họa do Tạ Tỵ vẽ về những nghệ sĩ mà ông quen biết. Những bức chân dung này được giới nghệ sĩ đánh giá cao.
Ngoài hội hoạ, ông còn nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực sáng tác: truyện, thơ, kịch bản, bút ký… Trong hơn nửa thế kỷ sáng tác, Tạ Tỵ đã để lại nhiều tác phẩm với các thể loại khác nhau.
Sau đây để cảm thông và tưởng nhớ một nghệ sĩ tài danh, trang TLVH xin giới thiệu bài viết của Nguyễn Đình Toàn nhân ngày giỗ đầu của Tạ Tỵ.
Ngày giỗ đầu Tạ Tỵ
Lại vẫn ông Vũ Ánh nhắc nhở trong máy, mới nhớ ra đã đến ngày giỗ đầu Tạ Tỵ. Vài người quen biết nhau nói rằng, cái chỗ người ta gặp lại nhau thường nhất, không cần hẹn trước, hiện nay là… Peek Family! Rất nhiều văn nghệ sĩ của chúng ta đã nằm lại đây.
Riêng Tạ Tỵ mất tại Việt Nam.
Những người quen biết ông, nhắc đến ông, khi tới viếng người khác ở Peek Family, chứ không phải để tiễn ông ở đấy. Tạ Tỵ từng ở tù cộng sản, vượt biên, tới Mỹ, nơi các con ông đều đã trưởng thành, thành đạt. Nhưng sau khi người bạn đường của ông, bà Tạ Tỵ mất, ông đã quyết định trở về “để chết ở Việt Nam” như lời ông nói.
Mỗi người một hoàn cảnh. Không ai biết rõ ông suy nghĩ những gì. Cứ bề ngoài mà xét, ông đã được toại nguyện.
Nhưng liệu ông có vui chăng?
Hoàn cảnh đất nước chúng ta thật không biết nói làm sao cho đúng. Có lẽ phải dùng đến hai chữ “kinh khủng!” Vì, sống ở trong nước cũng đáng sợ, ra đi cũng đáng sợ, đi rồi lộn trở về lại càng là điều đáng sợ hơn nữa. Biết bao nhiêu mối ràng buộc, liên quan tới người sống, người chết, quá khứ, hiện tại. Một hành động, lời nói của người này, có thể làm chảy máu tâm, trí người khác.
Phần Tạ Tỵ, ông ra về lặng lẽ, chết trong lặng lẽ. Liệu ông có vui chăng? Có lẽ không một người Việt Nam nào lại không mong ước được chết trên đất nước mình. Ðó là ước muốn âm thầm nhưng vô cùng mạnh mẽ. Có thể gọi là ước muốn thiêng liêng nữa.
Nó có cùng với thân xác, lớn lên cùng thân xác và chết đi cùng thân xác, dù người ta có là một người tầm thường nhất trong đời sống, có không làm được gì đáng coi là để lại cho đời. Các cụ kể rằng, xưa, những người vì lý do này lý do khác lưu lạc chân trời , tha phương cầu thực, không về được quê hương, lúc chết cũng muốn được chôn đầu hướng về cố quận.
Ước muốn đó làm cho mọi người ngang hàng với nhau đối với Ðất Nước. Nhân đây cũng xin nhắc lại đôi dòng tiểu sử của ông: Tạ Tỵ sinh năm 1921 tại Hà Nội. Ông tốt nghiệp trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Ðông Dương năm 1943, ngành sơn mài.
Nhưng ông lại nổi tiếng như một họa sĩ lập thể rồi trừu tượng về tranh sơn dầu. Ngoài vẽ ông còn viết văn, làm thơ, phê bình văn học.
Những tác phẩm văn học chính của Tạ Tỵ có thể kể:
– Những Viên Sỏi
– Yêu Và Thù
– Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ
– Phạm Duy Còn Ðó Nỗi Buồn
– Cho Cuộc Ðời
– Bao Giờ
– Ðáy Ðịa Ngục
– Mây Bay
Ðề tựa cho tuyển tập truyện ngắn Những Viên Sỏi của Tạ Tỵ xuất bản lần đầu tiên, nhà văn Nguyễn Hoạt viết: “Tôi nhận thấy trong con người Tạ Tỵ cũng như trong tác phẩm văn chương của anh, cái đáng yêu nhất, đáng quý nhất vẫn là Tình Thương chân thành, một Tình Thương do sự khích động qua xúc cảm mà bật ra, chứ không phải là một thứ văn chương hời hợt, giả tạo.” Xin trích dẫn sau đây vài đoạn trong bài thơ “Ðôi Ta” in trong Tuyển Tập Tạ Tỵ [các trang 612-613]. Ðây là bài thơ Tạ Tỵ đã viết khi ở trong trại tỵ nạn Pulau Bidong:
Chúng ta ngồi đây, trên mỏm đá này,
không thuộc về quê hương nước Việt
Ðã xa rồi, xa thật rồi, những hình bóng thân yêu
Ðã vĩnh viễn chia tay cùng phố phường quen thuộc
Việt Nam đó, bàn chân nào nghiêng nghiêng lối bước
Tà áo nào tha thướt phủ hoàng hôn
Mưa đêm về có là ướt môi hôn
Và sương gió có đùa vui bờ vai nhỏ
Chúng ta ngồi đây, trên mỏm đá này, ôm đầy nỗi nhớ
Theo sóng triều dào dạt tấp vào bờ cát đìu hiu
Từng nỗi buồn vui đã mất
Chúng ta nhìn xác những con tàu phơi mình trên bãi vắng
Như nhìn thấy bao nhiêu kiếp người trôi giạt, nằm lại
Nơi đây, trên ngọn đồi Vĩnh Biệt
Chúng ta nắm tay nhau, những đường gân nổi lên xanh, tím
Hơi nóng truyền lan ấm chiều hoang đảo cô liêu!
Chúng ta ngồi đây, trên mỏm đá này, cho nhau hơi thở
Cho nhau niềm Tin để làm lại cuộc đời
Cho hy vọng trên môi cười héo hắt
Chúng ta xích lại gần nhau, khi nắng chiều sập xuống
Khi không gian lắng đọng, mịt mùng sóng vỗ ngoài khơi
Khi tất cả chìm vào vắng lặng
Chúng ta chẳng còn nhìn rõ nhau
Chỉ nghe tiếng gió thở dài trên sóng tóc
Với nhịp tim ru nhẹ chẳng thành lời…
Thơ ông như thế. Ông ra đi như thế, trở về như thế. Ông muốn được trên quê hương. Ông đã toại nguyện. Liệu ông có vui chăng?
Nguyễn Đình Toàn