Menu Close

Con người dân chủ

Tiến trình dân chủ hóa là một tiến trình phức tạp, bao gồm sự hội tụ của nhiều yếu tố xã hội, chính trị, kinh tế, giáo dục…, nhưng xét cho cùng, yếu tố quan trọng nhất, và căn bản nhất của tiến trình dân chủ hóa tại bất kỳ một quốc gia nào cũng vẫn là yếu tố con người. Nếu mẫu người sĩ phu là nền tảng của xã hội phong kiến, thì xã hội dân chủ phải có mẫu người dân chủ. Dù dân chủ là một khái niệm quen thuộc và được sử dụng khá phổ biến, việc thực thi theo đúng như ý nghĩa của nó qua cách hành xử và thái độ với nhau trong sinh hoạt thường nhật, từ gia đình, cộng đồng ra đến xã hội xem ra vẫn còn cần nhiều sự hoàn thiện hơn. Chuyên mục xin trích giới thiệu bài viết của Tiến sĩ Nông Duy Trường, sáng lập viên Học Viện Công Dân về đề tài này.

nguồn hvcd.org
nguồn hvcd.org

Hơn một trăm năm trước, nhà cách mạng Phan Chu Trinh đã nhận thức rằng ngoài việc đấu tranh giành độc lập cho đất nước, Việt Nam cần phải được dân chủ hóa thì mới có thể tìm được một chỗ đứng trên trường quốc tế. Chương trình hành động của ông có thể được tóm tắt như sau: “Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.” Tại sao Phan Chu Trinh lại chủ trương phải khai dân trí trước? Con người Việt Nam của thời đại Phan Chu Trinh sống dưới thời phong kiến, được giáo dục và hun đúc trong khuôn khổ Tống Nho, với các thứ bậc và giai cấp xã hội được tập đại thành cả hàng nghìn năm, với quyền uy tuyệt đối của vua, với “dân chi phụ mẫu” của quan lại, nên đã quen với hệ thống tư tưởng và xã hội phong kiến, và chấp nhận một cách tự nhiên những tương quan xã hội này. Việc nước là việc của sĩ đại phu, không phải việc của nhân dân lo đến. Do đó, khai dân trí không chỉ đơn thuần là nâng cao trình độ học vấn và kiến thức, khai dân trí còn là nâng cao nhận thức về vai trò và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong tập thể xã hội. Trong suốt 100 năm qua con người Việt Nam cùng với xã hội Việt Nam bước từ thời kỳ phong kiến quân chủ sang thực dân đô hộ rồi sang cộng sản tại miền Bắc và bán-dân chủ tại miền Nam cho đến năm 1975 thì cả nước hoàn toàn thuộc vào chế độ chuyên chính cộng sản. Lịch sử đã minh chứng và khảo cứu cụ thể của Freedom House đã xác định là những định chế chính trị không làm nên một chế độ dân chủ; do đó, không thể dùng những định chế như lập pháp, hành pháp, và tư pháp mà bảo rằng Việt Nam đã có một thể chế dân chủ. Một thể chế dân chủ phải được hình thành từ những đơn vị nhỏ nhất là cá nhân, là những con người dân chủ – khác biệt với đơn vị nhỏ nhất trong xã hội phong kiến là gia đình. Trong tác phẩm Today’s isms, xuất bản năm 1954, Ebenstein đã viết: “Sức mạnh của một nền dân chủ là ở ý chí bảo vệ dân chủ của người dân”. Cổ nhân ta cũng có nói, “người dân nào, xã hội đó.” Nói một cách khác, chính người dân là thành tố quan trọng nhất không những trong tiến trình xây dựng mà còn trong công cuộc bảo vệ dân chủ. Muốn xây dựng dân chủ, do đó, trước hết phải xây dựng con người dân chủ.

Ðể cụ thể, thế nào là con người dân chủ? Một con người dân chủ, trước hết phải có nhân cách dân chủ, và nhân cách dân chủ (democratic personality) được thể hiện qua:

  1. Tư duy dân chủ

Muốn có được tư duy dân chủ cần phải thực tập tư duy trên căn bản luận lý thực nghiệm (rational empiricism). Luận lý thực nghiệm lập luận rằng “mọi kiến thức của con người đều do kinh nghiệm mà ra” (John Locke). Vì con người chỉ có kinh nghiệm giới hạn nên kiến thức của con người cũng là kiến thức giới hạn. Do đó, trên căn bản luận lý thực nghiệm, không có cái gọi là chân lý tuyệt đối. Ðã không có chân lý tuyệt đối thì sẽ không đưa đến những giáo điều và hành động cực đoan. Khi đã ý thức được rằng “cái biết” của ta hữu hạn và có thể sai lầm, người có tư duy dân chủ dễ dàng chấp nhận những khác biệt trong sinh hoạt xã hội cũng như bất đồng chính kiến trong chính trị. Mỗi người có thể nắm giữ được một phần của sự thật và do đó khi hợp tác sẽ đem lại kết quả tốt hơn cho tất cả. Tư duy giáo điều không nhường đất cho thảo luận hoặc thỏa hiệp. Hậu quả của tư duy này là các biện pháp tranh đấu cực đoan, không khoan nhượng, và kết quả là một xã hội bị áp chế, là những chế độ chuyên chính, độc tài.

  1. Khả năng dung thứ (tolerance)

Kết quả của tư duy thực nghiệm mang đến một ảnh hưởng tâm lý vô cùng quan trọng trong việc xây dựng nhân cách dân chủ; đó là khả năng dung thứ. Ý thức được sự bất toàn của mình, con người dân chủ dễ dàng chấp nhận những khác biệt về tư tưởng, về chính kiến, vân vân. Khả năng dung thứ giúp cho công việc giải quyết những bất đồng diễn ra trong một không khí cởi mở và xây dựng cho cái tốt chung, chứ không đưa đến tình trạng “một sống, một chết.” Trong một xã hội có rất nhiều dị biệt, dù ngay cả khi có chung một mục tiêu, sự khác biệt về phương thức cũng đủ đưa đến các sự tranh cãi quyết liệt. Nếu không có khả năng dung thứ để ý thức được sự thiếu sót của mình mà chấp nhận phần đúng của người khác thì xã hội sẽ không thể xây dựng được trong hòa bình và tiến bộ.

  1. Khả năng đối thoại

Từ tư duy dân chủ và khả năng dung thứ, một thuộc tính căn bản nữa của nhân cách dân chủ là khả năng đối thoại. Trong một xã hội văn minh và trật tự, mọi khác biệt đều được giải quyết qua các cuộc thương thảo. Nhân cách dân chủ đòi hỏi ta phải biết chấp nhận sự khác biệt và sẵn sàng đối thoại giữa các phe nhóm bất đồng ý kiến. Ðối thoại để tìm ra giải pháp chung chứ không phải để tranh hơn thua. Chấp nhận đối thoại trong sinh hoạt xã hội sẽ đưa đến chấp nhận đối lập trong chính trị.

  1. Ý thức trách nhiệm

Ngoài ba thuộc tính trên của nhân cách dân chủ, ý thức trách nhiệm là một thuộc tính quan trọng trong việc xây dựng xã hội dân chủ. Con người dân chủ hiểu được vai trò của mình trong xã hội cũng như hiểu được trách nhiệm của mình trong việc sống chung với nhau trong một cộng đồng. Ý thức trách nhiệm đưa đến những hành động cụ thể trong sinh hoạt chứ không phải ý thức suông. Từ ý thức trách nhiệm này con người dân chủ phát huy một thuộc tính khác nữa là tinh thần tập thể (cộng đồng) và thiện nguyện.

  1. Tinh thần tập thể và thiện nguyện (voluntarism)

Tinh thần tập thể và thiện nguyện giúp con người dân chủ xây dựng một xã hội dân sự, một xã hội trong đó người dân tự nguyện -mà không qua chính quyền- làm những gì mà họ thấy cần thiết cho chính bản thân và những người chung quanh (tại các quốc gia dân chủ ta thấy có rất nhiều các tổ chức thiện nguyện về đủ mọi khía cạnh và sinh hoạt của xã hội. Người dân không ỷ lại vào chính quyền để giải quyết các vấn đề cho họ). Tinh thần tập thể và thiện nguyện này là cốt lõi của xã hội dân sự và dân chủ vì qua những sinh hoạt thiện nguyện, người dân thực sự thi hành quyền làm chủ xã hội.

Nhân cách dân chủ một khi đã được hình thành cần một môi trường thuận lợi để phát triển, cần được vun xới để nảy nở. Môi trường thuận lợi ấy chính là một xã hội dân sự, hay còn được gọi là xã hội công dân (civil society).

TS Nông Duy Trường