Menu Close

G. (Kỳ 2)

Tập truyện ngắn Xứ Sấm Sét của Võ Đình là cuộc thử nghiệm hội nhập đất khách. Có lẽ chỉ có Võ Đình và Đỗ Khiêm là hai nhà văn đã thật sự sống với văn hóa và con người của đất khách. Võ Đình có khả năng tiếp cận hai thế giới Đông-Tây bằng cái nhìn hội họa, rồi hòa hợp chúng trong mầu sắc văn hóa của hai cõi để tạo thành một phong cách Võ Đình.

Hãy chú ý đến cách viết của Võ Đình: “Tôi thấy, tôi nghĩ rằng tôi thấy được một ánh lửa lòe sáng; có lẽ một tia nắng nào đó, lưu lạc trên núi kia, bỗng tìm được lối về, hấp tấp phóng lui để hòa mình vào bóng tà huy.” (G., Xứ Sấm Sét, trang 32). Đó không phải là viết mà cũng chẳng phải là vẽ: cả hai. Mở đầu: Tôi thấy, tôi nghĩ rằng tôi thấy, là một câu rất Tây, rất “hiện sinh”, và kết thúc bằng… bóng tà huy rất Ôn Như Hầu. Đầu Ngô mình Sở, nhưng không chướng, mà lại rất… hợp, rất hay. Đọc kỹ hơn, thì những: tôi thấy, tôi nghĩ rằng tôi thấy, có lẽ…, trên núi kia… đều chỉ là những dự tưởng, ảo giác; bởi: đã chắc gì? Nhưng những dự tưởng ấy hợp lại, thành một cảnh thật trong tâm linh, bởi tất cả những yếu tố: ánh lửa lòe sáng, tia nắng lưu lạc, bóng tà huy… có thể khởi đi từ một bức tranh trừu tượng.

Võ Đình (trái) và Lai Hồng - 2007
Võ Đình (trái) và Lai Hồng – 2007

Những nhân vật trong truyện Võ Đình thường có chất mầu nhiệm, siêu hình và siêu linh; phần nhiều là người Mỹ, nhưng là một thứ Mỹ bị nghệ thuật hóa, bị Việt hóa, trong chất Võ Đình, họ trở thành những biểu tượng giao lưu. Con chim G. hiển linh như một kỳ điểu văn hóa, một thứ Gabrielle thánh linh hiện hữu, một ảo giác của nghệ thuật mà con người muôn đời tìm kiếm.

Thụy Khuê

G.

Sáng hôm sau, ngày Các Thánh -All Saints Day- trời đẹp, tôi còn nhớ kỹ, đẹp quá, một trong những ngày bỗng nhiên giữa cái cảnh thê lương tàn tạ của mùa thu chết, nắng lại vàng rực, trời xanh rờn, không ấm không lạnh, tuyệt quá đến nỗi ta ngẩn ngơ bàng hoàng không dám tin có thật. Trước khi điểm tâm, tôi ra vườn cho súc vật ăn uống. Trong khi bầy gà tới tấp mổ bắp, tôi lẻn vào chuồng lượm trứng. Bỗng nhiên một tiếng ầm! Cả cái mái tôn rung chuyển trên đầu. Tôi vụt chạy ra, nhìn lên.

Gabrielle! G. đã về lại, rực rỡ trong nắng thu. G. đang chậm rãi khép hai chiếc cánh lớn lại sát thân. Hôm trước G. bất ngờ hiện ra trước mắt chúng tôi, trong khu vườn rậm, một chiều tà, đã đem lại cho chúng tôi, đúng hơn, cho chính tôi, cái cảm tưởng rằng G. không phải chỉ là một con chim lạ lùng đẹp đẽ, mà chính là một thứ chim thần, một thánh điểu. Nhưng bây giờ, sáng hôm sau đó, trước mắt tôi quả có một con chim vô cùng đẹp lạ, chính thị là một con chim thật. Toàn thân óng ánh màu xám bồ câu lung linh, còn màu lục thì đúng là màu ”tourmaline”, một thứ ngọc thạch rất hiếm, rất quý. Và sáng đó, tôi còn thấy thêm một điều nữa: Con mắt lành của G. có một màu vàng chìm chìm, tối tối, như loại hoàng kim những đồ nữ trang thượng cổ. Trên mái tôn rỉ sét của cái chuồng gà xiêu vẹo, G. đứng thản nhiên bất động. Tôi đứng cách con chim lớn không đầy ba thước tây. Bất kể sự gần gũi ấy, bất kể thực tại rõ rệt trước mắt ấy, trong óc tôi vẫn còn giữ nguyên vẹn khối lửa cháy lòe trong mắt G. tối hôm trước. G. nhìn tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi, nhìn với con mắt lành màu vàng cổ, bao quanh với những nét viền màu đồng rỉ như mắt xếch những tài tử hát bội. Tôi không cầm được. Tôi mỉm cười hỏi: “Nàng là ai?”

Trong sân chuồng bao quanh bởi màn lưới sắt, đàn gà mái gà con mổ bắp, chạy lui chạy lại, chen bên này lấn bên kia, trong khi Lửa và Vôi, hai con gà trống vĩ đại (một con đỏ, một con trắng!) làm bộ tịch giữa đám thê nhi của chúng.

Tôi nhìn lên mái tôi gọi: “Này, xin mời nàng xuống xơi vài hạt nhé!”, và tôi vãi một đám bắp xuống đất bên ngoài màn lưới. Tôi không ngờ: G. xòe hai cánh lớn, trườn xuống mái chuồng gà. Cái cách ăn uống đi lại của con chim lạ thật giống nhau. G. vươn chiếc cổ dài ra, một động tác vừa căng thẳng vừa uyển chuyển, rồi đầu cúi xuống, chậm rãi, vững vàng, nhưng êm dịu như đôi chân của một vũ công cổ điển.

Gold Angel  - Họa phẩm của by Michael Parkes
Gold Angel – Họa phẩm của by Michael Parkes

Tôi đứng xem G. một lúc lâu, nhưng đám hạt bắp vẫn còn như nguyên… Thình lình Lửa ở đâu chạy ra – chính tôi quên đóng cửa chuồng! – sau lưng là Vôi và vài con gà mái. Lửa nhảy xổ lại, lông cổ phồng ra trông thật hung hãn. Nhưng G. đã vượt khỏi tầm cựa của con gà trống khổng lồ. Lần thứ hai, tôi nghe tiếng kêu kỳ lạ, tiếng kêu tôi đã nghe một lần tối hôm trước mà cứ ngỡ là nghe trong mơ. G. kêu một tiếng ngắn, rồi bay vụt lên, cánh xòe rộng như cánh đại bàng. G. bay vượt những cành, những lá trong khu rừng thưa, bay cao dần, rồi biến mất.

Chiều hôm ấy, khi vợ con tôi, kẻ đi dạy, người đi học về nhà, tôi kể chuyện G. đã trở lại. Và tôi cho mọi người biết tôi quyết định giữ lại con chim lạ. Cả hai chị em Yên, Ba mừng rỡ là G. đã quay về, nhưng càng hân hoan khi biết cha chúng đồng ý bắt nuôi.

Chỉ vợ tôi là có vẻ thờ ơ với ý kiến đó. Nhưng nàng không nói lên điều gì để phản đối cha con chúng tôi. Có lẽ nàng biết rằng ngoài sự kiện tự nó đã là một phép lạ đáng chiêm ngưỡng, G. đã trở nên, đối với tôi, một thực tại vô cùng quý báu, một cái gì đó mà chỉ có tôi mới biết được nguồn gốc và giá trị. Cũng có lẽ, tôi rất ngờ, nàng tiên đoán thấy được những ý nghĩ của tôi về G. tối hôm trước khi ngồi một mình trước lò củi cháy tàn. Rất có thể vợ tôi đã biết đến và chấp nhận cái tham lam ham hố của tôi. G. đã đến, đã cho chúng tôi biết là tất cả mọi người thân yêu, mọi việc xa gần, trong cõi đời này hay ở thế giới bên kia, đều xong xuôi, đâu vào đó, không có gì thắc mắc nghi hoặc. Nhưng thế vẫn chưa đủ.

Tôi đòi hỏi nhiều hơn. Tôi muốn được thấy một lần nữa, hai lần, một ngàn vạn lần nữa, ngọn lửa cháy lòe khi tia nắng lạc loài tìm được lối về từ bên kia núi tối chạm phải con mắt vàng cổ của G. Con mắt mà mới sáng hôm đó còn nhìn thẳng vào tôi với một cái nhìn vừa xa xôi, vừa hiền hòa, vừa bao dung. Cái nhìn đó đã làm cho tôi càng thèm khát được biết rõ thêm, được an ủi vỗ về thêm, được nắm chặt trong tay một thứ bảo đảm kiên cố nào đó không có gì làm sứt mẻ được.

Và như thế đấy, tôi quyết định bắt giữ con chim lạ. Không để làm một thứ gia súc như Ba muốn làm. Cũng không để làm một thứ đồ trang trí như ý kiến của Yên. Tôi sẽ bắt giữ G. như bắt chộp lấy được một ảo giác biết thở, biết bay, một giấc mơ mà ta còn có thể nhìn thấy được khi đã tỉnh giấc. Chưa gì tôi đã tưởng tượng đến những lúc rình mò bất thần bắt gặp G. Tôi sẽ xúc cảm lần nữa với cái “đau” vụt đến vụt đi, tôi muốn nói đến cái đau mà chính thật là cái vui vô cùng mãnh liệt thình lình được thấy tận mắt, nhìn tận mặt, một người thân ruột, một người bạn thiết, sau bao năm sống ly chết biệt. Chưa gì tôi đã nghĩ đến những chiều tà khi ánh nắng chỉ còn lại vài nét lê thê, tôi sẽ nhón nhén đến núp sau cánh cửa lớn và chờ đợi G. Và nếu may mắn, tôi sẽ thấy lại được, một lần nữa, trận mưa pháo bông bùng cháy tung lên từ con mắt vàng…

***

G. không trở lại, cả tuần lễ đó. Nhưng đến tối thứ bảy, vợ chồng con cái tôi đã dựng xong “biệt thự” cho G. Cả ngày chúng tôi hì hục làm việc: Ðóng cọc, căng lưới sắt quanh một mảng lớn của cánh đồng trước nhà. Từ những cọc cây cao hơn, chúng tôi căng lưới lên cả phía trên. Thực tình mà nói, “biệt thự” ấy, nếu so với những “chuồng” chim vĩ đại ở Sở Thú thì chẳng ra cái gì, nhưng cũng đủ không gian cho một con chim vóc dáng như G. chẳng những đi lại được bên trong mà còn “bay” lên “bay” xuống. Chúng tôi an ủi nhau: Chật chội thật nhưng không đến nỗi chật chội quá! Sáng hôm sau, tôi dậy thật sớm. Với vài mảnh gỗ, dăm thước dây thép và lưới kẽm, tôi đóng một cái bẫy.

Thần điểu mình người do họa sĩ Theltona vẽ
Thần điểu mình người do họa sĩ Theltona vẽ

Tôi hết sức đóng làm sao để nếu G. có bị sập vào thì dù vùng vẫy mấy cũng không bị thương tích. Tôi hăm hở làm việc. Nhưng đôi lần, tôi bỗng dừng tay, sững sờ. Tôi ngạc nhiên – và hơi xấu hổ – thấy tim đập mạnh. Thì ra tôi bắt chộp được mình đang chờ đợi, thấp thỏm, hân hoan như một đứa trẻ chờ mẹ về. Một cảm xúc mà đã từ quá lâu, quá lâu, như bao người khác, tôi không còn được thấy trong lòng.

Ngày qua ngày lại, tuần này trôi đi tuần khác đến, mới đó đã giữa tháng Một dương lịch. Cây cối đã trơ trụi quá nhiều, thế mà G. vẫn chưa trở lại. Ngồi ở bàn làm việc, tôi có thể nhìn xuyên qua phần trên, vốn là kính trong của cánh cửa sau. Chia cách mặt hậu của căn nhà với cánh rừng thưa là một bờ đất cao với những tảng đá nằm ngổn ngang. Tôi phóng mắt từ những tảng đá ấy, vượt khoảng bờ đất, lên đồi, lên cao mãi, cho đến đỉnh núi san sát cây cối đã trụi lá trên nền trời đông màu thiếc lạnh. Tôi hay ngừng tay, nhìn lên, chờ đợi. Thật vô lý, nhưng tôi vẫn tin tưởng là một giây khắc nào đó, tôi sẽ ngẩng lên đúng ngay vào lúc G. bay qua khoảng trời đất đóng gọn trong khung kính vuông đó: Như một cái chớp lòe sáng, một hào quang bùng lên với hai màu ngọc thạch và hoàng kim…

Nhưng tôi đã hoài công chờ đợ. Hai đứa Yên và Ba bận rộn bài vở cùng nhiều thứ lăng nhăng khác, xem như đã quên mất G. Và tôi nghĩ thầm, vợ tôi có vẻ như thở phào nhẹ nhõm, trút bỏ được một mối lo âu. Tôi biết nàng đã yên chí là con chim lạ sẽ không bao giờ quay lại nữa.

***

Cuối tháng Một dương lịch, đúng trước ngày sinh nhật của tôi, trời trở lạnh da diết, một ngày thật lạnh đầu tiên của mùa đông năm ấy. Ðứng ở gác thượng nhìn ra, tôi thấy được cái “chuồng chim” chúng tôi xây dưới cánh đồng cỏ. Ðêm qua sương giá có rơi, bọc trắng màn lưới sắt, sáng ra nhìn tưởng những tấm lụa thêu ngân tuyến. Tôi thoáng nghĩ, điệu này e G. không trở lại nữa, chỉ còn có nước tháo gỗ tháo lưới, hạ cái “chuồng chim” đi cho xong chuyện. Trong thâm tâm, tôi chẳng biết làm gì hơn là chấp nhận một ý niệm hiển nhiên; một cái gì đó thật đẹp đẽ, thật hiếm có đã đến, rồi đã bỏ đi, chỉ có thế thôi.

Vợ con tôi thường mừng tuổi tôi một ngày sớm hơn để cho trùng với ngày cha mẹ sinh tôi ra bên kia trái đất. Tối đến, cả nhà vui vầy ăn một bữa cơm thật đặc biệt, tặng quà, mở quà, v.v… Giờ đi ngủ rồi cũng đến, mọi người ríu rít lên gác. Chỉ còn tôi ngồi lại xem chừng mấy khúc củi lớn để chúng cháy cho thật hết.

Và lần đầu tiên, cả ngày hôm đó, tôi nghĩ đến G. khi bất chợt thấy tuyết rơi lả tả bên ngoài. Tôi đứng dậy, đẩy cửa kính lớn, nhìn ra hiên. Từ lúc nào không rõ, tuyết đã rơi có đến hai ba phân trên nền xi măng. Bỗng nhiên tôi choáng váng, một nỗi xót xa tràn trụa trong lòng. G. đã bay về một khu rừng xa xôi hoang vắng nào? Về một đỉnh núi trơ trọi héo hon nào? Trong đêm khuya tối tăm lạnh lẽo, tuyết rơi không một tiếng động, bộ lông vũ màu lục “tourmaline” và xà cừ đó có giữ được khô, được ấm không? Tôi nghĩ đến con mắt mù của G., con mắt giống hệt một hạt nút bạc. Tôi nghĩ đến con mắt lành của G., con mắt lành màu vàng cổ, ánh vàng nay chắc đã tắt rồi trong đêm đen mịt mùng… Hôm đó là ngày sinh nhật của tôi, thế mà tôi đóng cửa tắt đèn, trong lòng buồn bã lẫn lộn một nỗi thấp thỏm, một cảm giác rờn rợn bất an.

Quá nửa đêm, nửa ngủ nửa thức, tôi tưởng tôi nghe tiếng kêu của G. Nhưng tôi nghĩ tuyết rơi mạnh như thế G. đâu có quanh quẩn ở đây. Chắc thế nào cũng đã trốn vào trong một hốc đá nào đó trên núi.

Nhưng tôi lại giật mình thức giấc. Hoàn toàn tỉnh ngủ, tôi nghe rõ ràng, một lần nữa, tiếng kêu kỳ lạ, tiếng kêu như có chất đồng chất sắt. Không phải chỉ một lần thôi. Tiếng kêu vang vang tới tấp từ phía sau nhà. Phòng ngủ chúng tôi lại ở mặt hậu. Khi tuyết lạnh phất vào mặt, tôi mới biết là tôi đã một bước phóng ra vườn, tay cầm cái đèn “pin” – thường vẫn nằm trên bàn nhỏ cạnh đầu giường. Tôi vụt chạy lên đồi, tai vang vang tiếng kêu kỳ dị.

Sinh vật nửa chim, nửa phụ nữ do Erin Kelso họa
Sinh vật nửa chim, nửa phụ nữ do Erin Kelso họa

Trong ánh sáng hình chổi của cây đèn “pin”, cách độ mười thước, G. đang vùng vẫy cố thoát khỏi cái bẫy. Trời! Cái bẫy tôi đã đóng để bắt G. mà vì G. không trở lại, tôi đã lú lẫn quên mất! G. đã mắc bẫy thật và đã cao chạy xa bay rồi nếu một chiếc cánh không bị kẹt cứng dưới khung cửa làm bằng lưới sắt móc lò xo. Tôi càng lại gần, con chim lớn càng vùng vẫy dữ dội. Tôi không thấy rõ G. nữa; chỉ còn có cánh, có lông, có tuyết tung lên và tuyết rơi xuống. Bỗng một vật lớn phóng về phía tôi, va mạnh vào vai tôi, làm tôi chúi ngã sang một bên. Tôi lấy lại thăng bằng thì G. đã bay bổng lên không, và mang trên lưng cả bầu trời tuyết, là đà bay xuống đồi, rồi hạ xuống đậu ngay trên nóc nhà. Tôi vội vã chạy xuống, vừa chạy vừa dâng cao tay rọi đèn lên. Nổi bật trên nền trời tuyết đêm, G. vĩ đại lạ thường. G. đứng im lìm một lúc lâu trong khi tôi ở dưới nhìn lên. Rồi con kỳ điểu từ từ quay đầu nhìn xuống: Một ngọn lửa lòe cháy trong con mắt vàng! Trong khoảnh khắc, tôi thấy ngàn vạn tia lửa sáng rực như một trận mưa pháo bông từ trên trời rơi xuống cùng với hằng hà sa số bông tuyết. Tôi sững sờ nhìn lên. Con chim lớn dang hai cánh mênh mông, vỗ một cái nhẹ như không, rồi nhún mình bay bổng lên, bay vút vào bầu trời đêm tuyết. Lúc đó tôi mới nhận ra tôi đứng trong bóng tối, không áo choàng, không giày dép. Và tôi run bắn cả người.

***

Sáng hôm sau, trời nắng sáng, trong và lạnh, vợ tôi và các con đã rời nhà trước khi tôi thức dậy; mọi người đã ngủ ngon lành suốt đêm, không hay biết gì.

Mặc quần áo ấm xong, công việc đầu tiên của tôi sáng đó là lên đồi sau, về phía chuồng gà, xem lại cái bẫy tôi đã dại dột quên bẵng để cho G. phải sập vào. Nhìn quang cảnh bừa bãi trước mặt, tôi nghẹn ngào: Lông chim rải rác bốn bề, mặt tuyết trầy trợt nát bấy, máu thấm vào tuyết lan ra nhiều vạt đỏ hồng. Tôi đủ hiểu là G. đã vùng vẫy mãnh liệt thật lâu để thoát thân trước khi tôi nghe được tiếng kêu mà cầm đèn chạy lên.

Tôi cúi nhặt một cái lông cánh, một cái lông dài màu lục mà tôi vẫn thường ví với ngọc thạch “tourmaline”. Tôi nhìn cái lông chim hồi lâu, rồi tôi dim mắt, chìa cái lông ra theo hướng ánh mặt trời. Rồi tôi xoay nó lại qua chiều khác, để nó ngược lại hướng ánh mặt trời. Nhưng cái lông chim tuyệt đẹp chỉ còn là một màu lục tầm thường, không phản ánh hỏa hoàng và huyết dụ nữa như tôi đã từng thấy khi nó còn dính liền nguyên vẹn với hình hài của G.

Sáng ấy, tôi đã nói, là ngày sinh nhật của tôi, giờ Tây-Bán-Cầu, trời rất đẹp, tôi đứng đó, một con người đã trưởng thành, một gã đàn ông xưa nay vẫn kiêu căng về cái “gươm đàn nửa gánh” của hắn, một đấng tu mi. Thế mà tôi thấy rậm rực, run run trong lòng. Một tí ti nữa, chỉ một tí ti nữa thôi, thì tôi đã đưa tay lên ôm mặt khóc, như một đứa trẻ con…

VĐ, 1979

Trần Vũ đánh máy lại năm 2005 từ tập Xứ Sấm Sét, Nxb Lá Bối, 1980.