Menu Close

Tên Thánh và Pháp danh (Kỳ 2)

Đại lễ Phật Đản tại Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, tại Huế. Ảnh: ghpgvntn

Mỗi lần dự đám tang của một bằng hữu hay thân nhân, chúng ta thường được cho biết tên thánh hoặc pháp danh của người đã khuất để cầu nguyện, tùy theo người đó theo đạo nào lúc còn sống. Sau đây là một số khái niệm về tên thánh của người Công giáo và pháp danh của người Phật tử.

Pháp danh

Của người theo Phật giáo Đại Thừa

Pháp danh là tên đạo lý, phàm người được thế độ làm tăng chẳng còn dùng tên họ theo đời mà phải lấy tên theo đạo do vị tôn sư đặt cho mình. Người thọ tam quy, ngũ giới, tu tại gia cũng được mang pháp danh, cũng kêu là pháp hiệu.

(theo Phật Học Từ Ðiển của Ðoàn Trung Còn)

Như vậy, pháp danh là tên gọi người Phật tử thọ trì sau khi quy y Phật giáo, cũng còn gọi là pháp hiệu, pháp húy, hoặc giới danh.

Ðối với tăng lữ, đây là tên gọi do vị Thầy ban cho sau khi cử hành lễ xuất gia.

Ðối với người Phật tử tại gia, đây là tên gọi được ban cho sau khi quy y, thọ giới, hay khi tiến hành tang lễ.

Muốn thành người Phật tử, phải quy y tam bảo, thọ ngũ giới. Vị bổn sư truyền giới sẽ đặt cho người đó một pháp danh, dựa theo bài kệ được truyền tụng trong môn phái của vị bổn sư ấy.

Như bài kệ sau đây của Giáo Hội Phật Giáo Cổ Truyền Lục Hòa Tăng, môn phái Lâm Tế:

Ðạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên

Minh Như Hồng Nhật Lệ Trung Thiên

Linh Nguyên Quảng Nhuận Từ Phong Phổ

Chiếu Thế Chơn Ðăng Vạn Cổ Huyền.

Mỗi vị tổ sẽ lần lượt lấy một chữ trong bài kệ trên làm chữ đứng đầu của pháp danh. Chữ đứng sau, vị bổn sư truyền giới tự chọn, nhưng thường lấy chữ có nghĩa gần giống với tên riêng của đệ tử.

Thí dụ: Một Phật tử tên Hùng được đặt pháp danh là Quảng Dũng. Chữ Quảng lấy trong bài kệ của tổ đình, còn chữ Dũng được chọn vì gần với tên Hùng.

Các Phật tử Việt Nam thường lấy pháp danh với các từ ngữ khởi đầu là Diệu, Tâm, Tuệ hay Huệ, Trí, v.v., như Diệu Lan, Diệu Hạnh, Diệu Tâm, Trí Hải, Trí Siêu, Tuệ Sĩ, Tuệ Quang.

Pháp danh được đặt trong buổi lễ Quy y trang trọng có một hay nhiều thầy chứng giám. Quy y nghĩa là hướng về và sống theo Phật, Pháp, Tăng nên trọng tâm của buổi lễ là lúc Phật tử quỳ trước Tam Bảo, ba lần phát nguyện xin trọn đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

Của người theo Phật giáo Nguyên Thủy

Pháp danh của các tu sĩ Phật giáo Nguyên Thủy thường là tiếng Phạn, nhưng cũng được phiên âm ra tiếng Hán Việt có ý nghĩa như tiếng Phạn. Ví dụ: Hòa Thượng Buddhapala gọi là Hộ Giác. Hòa Thượng Supanno là Thiên Tuệ. Hoà Thượng Vansarakkhita là Hộ Tông.

Tuy nhiên, pháp danh không quan trọng nơi Phật giáo Nguyên Thủy. Người cư sĩ và tăng sĩ cấp sa di thường vẫn giữ nguyên tục danh.