Trong dịp phỏng vấn đạo diễn Nguyễn Thị Minh Ngọc về sân khấu hài và thoại kịch lần trước, chị có nhắc đến kịch tác gia Vũ Khắc Khoan và vở kịch bi tráng Thành Cát Tư Hãn của ông sáng tác trước năm 1975. Chị tiết lộ, chị từng là học trò của thầy Vũ Khắc Khoan ở đại học Tri Hành. Chị còn giữ bản thảo Ga Xép của thầy. Thời gian đó chị cùng các bạn đang chuẩn bị làm vở kịch Le Malentendu-Ngộ Nhận (bản dịch Bùi Giáng) và Les Justes (thầy Lê Tuấn dịch) của Albert Camus, Les Mains Sales của J.P. Sartre, và The glass Menagerie của Tennessee Williams. Sau năm 75, chị được đóng vai Amanda trong The Glass Menagerie. Sau năm 2000 chị xém dựng vở Thành Cát Tư Hãn ở California, Hoa Kỳ. Thật tiếc, dự định bất thành.
Tôi được chị cho biết thêm tình hình thoại kịch ở Việt Nam hiện đang lâm vào tình trạng sống dở, chết dở, nhất là các vở kịch có tính triết lý hay nghệ thuật cao.

Trịnh Thanh Thủy: Thủy nghe nói ngoài hài kịch, thoại kịch ở Việt Nam đang hấp hối, là một kịch tác gia, xin chia sẻ ý kiến của chị.
Nguyễn Thị Minh Ngọc: Ðoàn kịch quốc doanh được coi như chết ngỏm, ngay cả đoàn quốc doanh ở Hà Nội cũng đóng cửa. Họ phân bì là trong miền Nam có kêu “Xã Hội Hoá” tức tư nhân bỏ tiền ra làm. Lúc tư nhân bỏ tiền ra làm, thì không được nhà nước hỗ trợ. Tỷ như, họ không có rạp phải bỏ tiền ra thuê rất mắc, và kêu cứu rất thường. Trước sự cạnh tranh của điện ảnh, lại không được trợ giúp, họ bị khán giả quay lưng. Chúng tôi vẫn có những ông bầu hay nhà sản xuất tư nhân rất có tấm lòng. Nếu ví với tỷ lệ 7/3, thì 7 cái doanh thu chỉ có 3 cái là nghệ thuật đàng hoàng. Có khi nó tụt xuống còn 9/1, ít ra cũng còn 1. Chúng tôi cũng rất mừng là sắp tới Sân Khấu Idecaf có làm một vở nhạc kịch có tên là “Tiên Nga” do chúng tôi hợp soạn, lấy tích của Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga. Nhân vật chánh là Nguyễn Ðình Chiểu, một người viết mù đau đớn trước thời cuộc loạn ly, nhân tâm thất cách, người ta sống cầu an không còn tinh thần Lục Vân Tiên nữa. Chúng tôi tuyên dương những anh hùng vô danh, trong đó là nhân vật Kim Liên được đề cao và những bóng ma của chiến sĩ vô danh được đề cao. Các em sẽ hát “live”, không hát nhép. Ðức Trí là người trong nước có đi học ở Boston, Mỹ, về và làm những bài nhạc rất cảm động với mục đích khiến các bạn trẻ hiểu hơn về văn học Miền Nam. Một tác phẩm như vậy kể cũng là làm với mục đích tác động đến cuộc sống bây giờ, khuyên nhủ mọi người không nên dửng dưng với cuộc sống chung quanh.

TTT: Nói đến thoại kịch và những vở có giá trị nghệ thuật sau 75, sân khấu kịch nghệ trong nước đã dựng được những vở tương tự như Thành Cát Tư Hãn tiêu biểu nào, xin chị đơn cử vài thí dụ.
NTMN: Có chứ, riêng tôi, đã dựng hai vở được mọi người rất thích là vở “Người hảo tâm thành Tứ Xuyên” và “Hồn Xuân Thu”. Vở thứ nhất “Người hảo tâm thành Tứ Xuyên” là một vở kịch của Bertolt Brecht đã bỏ ra 20 năm để viết. Khi kịch khởi diễn lần đầu năm 2000, xem xong khán giả đã xuống đường biểu tình chống nhà cầm quyền bấy giờ, vì vở kịch đã đặt ra vấn đề “Trong một xã hội xấu, liệu làm người tốt được không?”. Việc thực hiện vở này rất gay go, tôi đã được hội Ðức Á do chị Thái Kim Lan bảo trợ, có nghĩa là, nếu không bán vé được các anh chị em nghệ sĩ vẫn yên tâm lãnh lương trong một số xuất nào đó. Trong số 8 diễn viên (có Thành Lộc, Thanh Thủy, Hữu Châu, Quốc Thảo, Hoàng Trinh) chia nhau đóng hai mươi mấy vai, tôi lãnh một vai nhỏ. Mỗi diễn viên đã thật vất vả với nhiều nhân vật trong kịch – ngoài kịch, những đối thoại là mình – không là mình ở một vở thể nghiệm. Vở kịch theo đúng với tinh thần của Bertolt Brecht, nghĩa là luôn luôn để mọi người phải tỉnh táo rằng đây là diễn kịch, để họ có thể ý thức và liên hệ với công việc của xã hội bên ngoài.

Vở thứ hai diễn năm 2003, “Hồn Xuân Thu”, không phải một vở kịch Tây Phương mà do 4 người bạn trẻ người Trung Quốc viết lại từ một tích cổ là bi kịch Khuất Nguyên. Nội dung cũng là vấn đề của một người tốt không sống được giữa cõi đời ô trọc đã phải nhảy xuống sông Mịch La tự tử. Tuy nhiên 4 bạn trẻ đã hiện đại hoá và đưa ra những vấn đề cần suy ngẫm. Với tính thách thức và thú vị, chúng tôi đã quyết tâm làm vở ấy. Tôi có bảo các sinh viên, khi rời trường ra đời, các em sẽ không bao giờ chạm được những vở kịch hay như thế này nữa đâu, vì chỉ còn vấn đề của kinh doanh và cơm áo gạo tiền. Các em tỏ ra rất hạnh phúc khi được tham gia, vai Khuất Nguyên do 3 em đảm nhận. Vở ấy có thâu truyền hình nhưng không thể phát được với vấn đề là, họ thấy cấu trúc rối loạn quá, họ không biết xếp đặt thế nào cho khán giả dễ hiểu. Tuy nhiên, đối với những ai chịu khó kiên nhẫn một chút sẽ hiểu. Ðó là một loại vở kịch mà chẳng cần phải có một tổng thể nhưng chỉ cần một mảng hay là đủ và người ta có thể thấy đó là một tác phẩm hay rồi.

TTT: Ðối với các vở kịch có nhiều tính triết lý, phi lý, rất kén khán giả, chị có gặp khó khăn gì khi viết hay thực hiện không? Nhất là từ phía chính quyền? Cách chị phải đương đầu.
NTMN: Sau 75, có nhiều chuyện ngang trái xảy ra với tôi. Xin đơn cử một câu nói của một nữ đạo diễn của miền Nam ra Bắc tập kết và đi học nước ngoài về, tâm sự với tôi rằng, “Không đâu mà để những người dốt nát dễ chui vào làm lãnh đạo, bằng ngành văn hoá,”, bởi vì các ngành khoa học khác thì rõ ràng như “2 cộng 2 là 4”, còn ngành văn hoá thì “2 cộng 2 có thể là 0, 1 tỷ hay vô cực”. Thế là tha hồ cho người ta nghĩ; Ồ, người ta có một số năm ở tù hay sao đó, mà người ta suy luận, đương nhiên người ta có quyền kiểm tra tư tưởng của những người có trình độ hơn người ta. Rồi lại phải nghe người ta góp ý thay đổi vở diễn của mình bởi những người như thế, thì có nhiều người bị xúc cảm quá độ đến mức muốn bỏ nghề, hay tự tử”.

Còn tôi, khi có người bảo “Sao bà bị phê bình mà bà tỉnh bơ?”. Nghe thế, nhiều khi tôi nghĩ đến chuyện, “có đáng để trầm mình như Khuất Nguyên không”…(cười lớn). Tuy nhiên, vì đã trang bị trước và xác định mình “sống chung với lũ” rồi, thành ra mục đích của tôi là làm sao cho tác phẩm của mình ra mắt được với công chúng là đủ. Ngoài ra tôi thấy, khá là phí phạm chất xám và công sức của các anh chị em chúng tôi khi làm kịch mà tỷ lệ 10 thành công lực bỏ ra chỉ có 1 thành công lực là sáng tạo, 9 phần còn lại phải lo đối phó với những người giống như kiểu “Họ cho tất cả điều họ nói đều đúng, và nói chuyện với họ không phải đối thoại mà chỉ là độc thoại thôi, hệt như đó là một vở kịch phi lý.
Nói đến kịch phi lý là trường phái kịch mà tôi thích trước 75, nên sau 75 tôi vẫn tìm đủ mọi cách để có thể cho ra đời được. Tuy nhiên lại hoá ra đó là loại kịch “bị sợ”, nó bị khá nhiều những nhà lãnh đạo văn hoá, nhất là trong Sài Gòn rất là sợ. Người ta sợ những gì vô hình, không rõ ràng. Có những vở mà tôi thấy buồn cười, tự hỏi “Ủa, 2 điều vi phạm luật pháp là “chống cộng” và “sex”, thì vở của tôi không đụng vào đó mà sao họ sợ.?”. Có nhiều người bảo với tôi rằng “Họ không thể cấm vì nó không vi phạm luật, nhưng sau 50 xuất thì tôi ngưng được rồi, ngưng mà không có lệnh cấm”. Tôi hỏi lại “Ðược! Tôi dẹp cũng được, nhưng cho tôi biết cái tên, tội của nó là gì?”. Họ trả lời “Nó đã được đặt trên cơ sở triết học ngoài Marx…”. Nói chung thì khi tôi nghe được như vậy, tôi hiểu là người ta hiểu ra vấn đề mà người ta không đối thoại được thì người ta muốn mình ngưng. Quyền cho diễn hay không là quyền của người ta chứ không phải của mình, tôi đã làm hết sức mình rồi đành “tới đâu hay tới đó” hay tôi thôi, vì tôi còn nhiều chuyện khác để làm.

Tuy nhiên có những trường hợp mà khi nó trôi qua rồi, tôi chỉ còn kết luận một điều là “Trời cứu”.
Ðộc giả có thể vào link này xem Nguyễn Thị Minh Ngọc diễn tiểu phẩm “Cô Ðào Hát”
Trịnh Thanh Thủy thực hiện