Trang Châu sinh ở Huế. Thuở nhỏ ông theo học tại các trường Pellerin, Thiên Hựu (Huế), Yersin (Ðà Lạt). Tốt nghiệp Y khoa năm 1966. Là bác sĩ quân y, phục vụ trong binh chủng Nhảy Dù từ năm 1966 đến năm 1971.
Trang Châu vừa làm thơ vừa viết văn. Trước 1975, ông cộng tác với các tạp chí: Tiền Phong, Khởi Hành, Văn Học… Ông từng đoạt giải thưởng văn học của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa với cuốn bút ký nhan đề Y Sĩ Tiền Tuyến vào năm 1969.
Ông tị nạn tại Montréal Canada từ năm 1977, hiện hành nghề y tại phòng mạch tư. Tiếp tục sáng tác, nhưng ít gửi bài đăng báo. Ngôn ngữ thơ của Trang Châu trong sáng, giản dị, ý tình bộc trực. Hai bài thơ sau đây trích từ Thư Quán Bản Thảo của Trần Hoài Thư nói lên ý nghĩ của người lính trí thức trước tình trạng tối tăm hỗn loạn của xã hội Miền Nam thời chiến tranh đồng thời cho thấy tấm lòng nhân bản của chiến sĩ ta trước kẻ thù lâm nạn.
SAO KHUÊ
xin một ngày
Mầy nói anh em
Ngưng một ngày đấu tranh
Xin các thầy
Ðêm nay rằm
Ðình chỉ xuống đường
Xin các cha
Sáng mai chúa nhựt
Ðừng căng biểu ngữ
Mầy nói chính quyền
Ðừng nhân danh chúng tao
Nói những tên tham nhũng
Ngưng đục khoét một ngày
Nói các tay gian thương
Giảm giá hàng một buổi
Mầy nói bác tài xế taxi
Sáng mai có thằng nhà binh đi phép
Nó gọi xe nên dừng lại
Nói ông chủ nhà đèn
Ðừng cúp điện đêm nay
Mầy nói người đàn bà có chồng đi xa
Ngưng một ngày ngoại tình
Nói các em bán bar hôm nay cuối tháng
Ðừng đi với ngoại kiều
Tất cả để khi tao về
Thấy một niềm an ủi
Tất cả cho ngày tao đi
Trong tâm hồn phấn khởi
Mầy nói mọi người
Hãy lừa dối tao
Ðừng cho tao hay sự thực
Tao sẽ chết đi
Nếu không đào ngũ.
(Tam Quan 10 -4-66 )
nước mắt kẻ thù
nó bị thương
bị bắt sống
mọi người đòi giết nó:
nó núp trong hầm
với một khẩu tiểu liên
cầm chân cả trung đội:
nó bắn ngã chúng tôi một người
bắn bị thương hai người khác
tôi đọc nét căm hờn
trên những khuôn mặt đồng đội
mọi người đòi giết nó
tên du kích vùng khốn nạn
gài lựu đạn lùm cây bờ ruộng
giết những người bắt cá mò tôm
nó nằm đó
mình bết bùn
máu cánh tay nhầy nhụa
tránh những tia nhìn nổ lửa
những báng súng gờm gờm
nó nằm chờ
một phát súng vào đầu
một lưỡi dao rạch bụng
một cái đạp xuống hố sâu
nó nằm chờ nằm chờ
tử thần
nhưng
chỉ có bàn tay vuốt dịu căm hờn
bàn tay băng bó vết thương
bàn tay vỗ về an ủi
nó nằm chờ tử thần
sững sờ bắt gặp tình thương
đồng loại
đôi mắt sát nhân vụt bỗng hiền từ
nhen hai dòng lệ nhỏ
trong cuộc chiến hôm nay
cho tôi xin chiến đấu không hận thù
xin những vết thương bình đẳng
cho tôi đổi một trăm chiến thắng
lấy một giọt nước mắt kẻ thù
Bên bờ Kinh Sáng 17-2-67