Trong Dấu Binh Lửa, Phan Nhật Nam viết về Huế: “Lối đi nhỏ lẫn trong đám hàng rào lá chè xanh dày kín. Dọc trên đường về sân bay Tây Lộc, hào bên phải bay ngát hương sen. Mùa hè đẹp nhất xứ Huế, mùa của đêm trăng nhỏ giọt qua cành lá… Qua một quán nước, ánh nến vàng mệt, cô gái bán hàng rạng rỡ giữa một đám lính trẻ, quán Lưu Khách…” Là Huế của sau Mậu Thân, sau khi lính quốc gia tái chiếm cố đô rồi đời sống tái lập trong miệt mài của đất Thần kinh.
Cuối tháng 3 đầu tháng 4-1972 Huế đột ngột rơi vào một hốt hoảng khác: Cồn Tiên, Gio Linh với các căn cứ Fuller, Camp Carroll thất thủ. Tuyến Mai Lộc, Cam Lộ, Đông Hà rồi Ái Tử, Triệu Phong, Hải Lăng tan vỡ… Dân chạy loạn đã về ngập Phong Điền, vài mươi cây số nữa là xuống đến Hương Trà và Huế sẽ thành tuyến đầu. Phóng viên Phạm Văn Bình có mặt những ngày này. Bút ký của Phạm Văn Bình trầm tĩnh lạ lùng, nói lên được tâm tư của người Huế tuy lo âu cùng cực nhưng vẫn tin vào quân lực. Một bút ký không bom đạn tuy chiến tranh cùng khắp, không uất hận nhưng hoài niệm mà ngay dòng chữ đầu lập tức đưa chúng ta ngược về quá khứ. Trần Vũ
Phạm Văn Bình
Nếu chiến trận không diễn ra khốc liệt, Huế đang sửa soạn bước vào mùa thi. Bây giờ, phượng vỹ nở đầy hoa, thắm rực đường phố. Bây giờ, trong những ngôi vườn rợp bóng cây xanh, tiếng ve vẫn vô tình inh ỏi theo đúng chu kỳ đổi thay của thời tiết. Và cũng bây giờ, trên những xóm thôn dọc hai bên bờ sông Hương, những khu ngoại ô của Huế mang tên gọi thân thuộc như tên người tình: An Cựu, Kim Long, An Hòa, Ðập Ðá, Bao Vinh giờ đây các cây nhãn đã rụng hoa, kết trái để rồi khoảng một tháng sau, khi nắng hè vàng chín lối đi, những chùm nhãn lồng được bày bán khắp phố Huế, vượt đường bộ theo các chuyến xe đò ra Ðông Hà, Quảng Trị, quanh co leo đèo Hải Vân mây sa trên đỉnh, biển động dưới chân, trên chuyến xe lửa tốc hành đến Ðà Nẵng, Quảng Nam. Những chùm nhãn được nâng niu bởi mười ngón tay búp măng nõn nà, từ tốn rời phi cảng Phú Bài, vượt mây mang hương vị mùa hạ cố đô vào tận Sàigòn.

Những trái nhãn lồng tròn lẳn, cơm dày, mọng nước, cắn ngập chân răng nhưng không dám ăn vội, nhai dè sẻn và nuốt chừng mực vì sợ chút ngọt ngào của Huế vừa bắt gặp chóng mất và dư hương cũng chóng tàn phai.
Người lớn ăn nhãn Huế để hoài niệm quá khứ, bùi ngùi tưởng nhớ thời vàng son rực rỡ đã lùi vào bóng tối, những tháng ngày mũ áo thênh thang, sênh phách nỉ non đã bị lớp rêu thời gian làm mờ phai dấu vết, chôn kín dưới đáy hồ sen bao phủ quanh dãy trường thành, chằng chịt những rễ cây biến cố. Người trẻ ăn trái nhãn Huế chắc không khỏi nhớ đến đôi môi người tình và những nụ hôn đầu đời, khai phá thế giới hoang sơ, kỳ diệu của tình yêu.
Bây giờ, nếu những tin tức chính trị viết về Quảng Trị, Mỹ Chánh, Pleiku, Bình Long không chiếm đầy trên trang nhất các nhật báo thủ đô và vấn đề Việt Nam, một Việt Nam đau thương và bi tráng, đề tài vô tận được khai thác trên các đài bá âm, những bản tin viễn ký tới tấp đánh đi trên khắp địa điểm thế giới cạnh các cuộc công du gặp gỡ của các lãnh tụ hạng gộc. Nếu những sự kiện vừa liệt kê đã không xảy ra, nghĩa là Huế trở lại không khí bình thường của ngày thanh bình cũ thì trên các con đường, dưới những tàn hoa phượng tại các khu Ðồng Khánh, Quốc Học, Bồ Ðề, Nguyễn Du giờ đây đã tấp nập đi về những đàn nữ sinh áo trắng, nói cười ríu rít như chim.

Ngày trôi chảy trong nắng vàng và màu trắng trinh nguyên, khi những chùm sương lướt thướt trên sông bắt đầu tản mạn làm hiện rõ những con đò soi bóng trên Hương giang mướt xanh màu mắt thiếu nữ. Thuyền khởi sự chuyển động, xe nhịp ròn máy nổ mở màn một ngày sinh hoạt mới khi mặt trời rực sáng từ hướng biển Thuận An. Và chiều buông, trăng lên, sao rạng rỡ lóng lánh khắp bầu trời. Nơi đó, chưa hiển hiện những tòa binh-đinh cao ngất, những dòng ngựa xe thác lũ, bon chen theo nếp sống qua các ngã tư đèn xanh đèn đỏ máy móc nên trăng sao còn giữ lại chút huyền ảo, thơ mộng của thiên nhiên. Nhìn trăng còn có thể xúc động khi chợt nhớ ánh trăng mê cuồng trong thơ Hàn Mặc Tử, trăng mộng mơ của Xuân Diệu và trăng thổn thức khi lạc vào vườn thơ Lưu Trọng Lư. Ở đó, những vì sao còn mang nét quyến rũ, duyên dáng của chuyện tình được kể bởi Alphonse Daudet.
Không nơi nào mang lại những cảm giác kỳ thú, nhuốm đầy ảo tưởng bằng Huế vào những đêm trăng, nắm bàn tay mềm mại của người tình thơ thẩn dạo chơi qua các ngả đường vắng lặng ướt đẫm sương trăng, những khu vườn thơm ngát mùi bông sứ hay thoáng nhẹ hương ngọc lan. Huế cổ kính và thơ mộng, thế giới người sống trộn lẫn người chết, nơi chiếc bóng nặng nề của quá khứ vẫn tỏa rợp lên lối sống và sự suy tưởng hiện tại. Chưa đến Huế chắc bạn sẽ không tin khi có người kể lại những đêm khuya khoắt đã nhìn thấy hình ảnh một chiếc thuyền rồng, hoa đèn rực rỡ và những cung nữ cũng sáng rực như đèn, vừa hát vừa đưa đẩy mái chèo… trên không trung. Cũng có kẻ, thỉnh thoảng đã nghe tiếng cười thống khoái, ẩn ức, giả tỉnh giả điên của vua Thành Thái trên bến Vân Lâu những đêm mưa mờ mịt.
o O o
Tháng tư, mùa hạ trở về theo những vì sao biếc, tiếng đại pháo và xe tăng xuất phát từ bên kia con sông chia cắt tràn xuống phương Nam khiến dòng sinh hoạt xứ Huế sững sờ đứng khựng lại. Những sửa soạn của cuộc hành trình bước vào mùa hạ, mùa thi tạm thời hủy bỏ, những xôn xao vừa nhen nhúm cũng lịm tắt theo âm vang lửa đạn của trận chiến quy mô đã khởi diễn nhiều nơi trên tấm bản đồ chiến thuật. Quân ta rời khỏi mười ba tiền đồn phía Nam khu phi chiến, địch tấn công Lộc Ninh, chiến sự có thể nổ lớn trên chiến trường Tam Biên.
Những người dân Huế nhìn nhau thoáng lo âu, hỏi nhau những câu vu vơ để trấn tỉnh vì không biết hỏi ai, không lý hỏi đất trời, vì trời vốn mênh mông và đất thường nín lặng: “Chi lạ rứa, ăn chi mà người ta ham đánh nhau hoài vậy hè?”. Ôi, những ánh mắt muộn phiền của mẹ, chị và các em ta ngoài nớ. Những câu hỏi thốt ra nghe ngậm ngùi, quặn thắt nhưng thật dễ thương, cũng bắt đầu bằng ba chữ “Chi lạ rứa”. Chi lạ rứa, chiều ni tui muốn khóc, nhìn chi tui thân cỏ mọn hoa hèn.
Rồi những bà mẹ Gio Linh rớt nước mắt rời mảnh vườn nghèo chỉ trồng toàn cây bồ quân và mít theo dân chúng Ðông Hà, Cam Lộ, Quảng Trị, tất cả chạy vào Huế khi quân ta “di tản chiến thuật” khỏi tỉnh địa đầu. Bao nhiêu chuyện thương tâm xảy ra trên đoạn đường đầy máu và nước mắt dọc theo Quốc lộ 1. Những tràng đạn pháo kích đuổi theo dân chạy loạn như tiếng hú của những con quỷ gọi hồn, những xác chết sình thối không người chôn, những trẻ thơ ngậm chiếc vú không của người mẹ đã chết, bà mẹ sanh chưa đầy tháng đùm con trong bọc vải lết qua đoạn đường tử thần, khi vào Huế mới hay mình đã khư khư ôm giữ chiếc bọc không… Những ngày ấy bao nhiêu thương xót.
Bóng đen đe dọa và hơi hướm mùi tử khí từ phía Bắc, từ núi rừng trùng điệp phía Tây đã váng vất chung quanh Huế. Có tin bốn sư đoàn Bắc quân đang đào hầm, chuẩn bị cho thế trận mới, mục tiêu là Huế sau khi quân ta rút khỏi căn cứ chiến thuật Phú Xuân.
Dân chúng cố đô lại lũ lượt bồng bế nhau chạy vào Ðà Nẵng, Saigon trên các chuyến xe đò, xe nhà binh 10 bánh, máy bay dân sự, quân sự. Xe chật ních như nêm, người la liệt, xếp cá hộp, người bíu chặt hai bên hông, chất đống trên trần xe. Miễn là chạy thoát khỏi hai làn đạn giao tranh, miễn là tìm được chút bình yên khiêm tốn trên quê hương cuồn cuộn khói lửa để được sống sót, nghe nhau nói, thấy nhau cười, dù chỉ được nhìn nhau bằng đôi mắt quầng thâm. Ðây cũng là cơ hội tốt cho những con bạch tuộc thời cơ quờ quạng chân tay, uốn éo vòi nhọn. Một trăm ngàn đồng vé chợ đen, chợ đỏ Huế – Sàigòn.

Hai mươi lăm ngày bàng hoàng thất thanh của địa ngục máu lửa Mậu Thân còn đó. Những mồ chôn tập thể, xác đứng xác ngồi. Cho đến bây giờ bốn năm sau, những hài cốt chứng tích thảm sát vẫn chưa mục rã trong lòng đất và những đau đớn, xót xa còn bàng bạc, nguôi ngoai trong lòng những người còn lại. Huế đã bị đánh mất mùa Xuân năm 1968 và giờ đây, mùa hạ 1972, cơn địa chấn đạn bom, trận hồng thủy nước mắt lại đe dọa tìm về.
Nhưng Huế không thể lọt vào tay địch, dù chỉ có hai mươi lăm ngày như trong biến cố Mậu Thân, nhất định Huế không chấp nhận một cuộc lui quân dù chỉ lui quân vì chiến thuật. Một giai đoạn sai lầm đã được chỉnh trang, sự hốt hoảng, xáo trộn ban đầu đã lắng xuống. Huế đứng vững và Huế trở thành pháo đài niềm tin trong lòng người dân cả nước.
Và như hồi Tết Mậu Thân, những chiến sĩ Mũ Xanh đã hiện diện trong những ngày đầu của trận chiến và bóng dáng những chàng trai chiến phục rằn, nón sắt, súng XM16 trên tay trở thành hình ảnh thân thuộc của người dân cố đô. Họ ở bên trong, bên ngoài dãy trường thành, kiểm soát sự lưu thông tại những cửa chính dẫn vào thành Nội. Xa hơn nữa, phòng tuyến mới dọc theo bờ Nam sông Mỹ Chánh của đoàn Cọp Biển là một tường đồng vách sắt hóa giải mọi ý định tiến sâu xuống phía Nam để chế ngự Huế của Bắc quân. Thế công mới khởi đầu, các chiến sĩ Sư đoàn 1 Bộ binh đã lấy lại căn cứ Phú Xuân, đoàn Mũ Xanh cũng đã đột kích xuống Hải Lăng và đổ bộ tại Ðông-Bắc Quảng Trị. Ðám mây đen vần vũ những ngày Tháng Tư tan biến trên vòm trời xứ Huế, vầng trăng mới đã tỏa rạng sự bình an xuống cố đô, dân Huế lần lượt trở về. Sinh hoạt tuy chưa trở lại hơi thở bình thường nhưng những trái tim Huế không còn rộn rã nhịp trống ngũ liên. Nhà đã có người ở, chợ bắt đầu đông và trên các đường phố vài hàng nước ngọt, bún bò, bánh xèo e lệ nhả khói xanh thơm.
“Giờ thứ 25” đã kết thúc hoặc không bao giờ đến với Huế lần thứ hai. “Nhà có người ở” những chữ viết đơn sơ, nguệch ngoạc trên các tấm bìa cứng xé ra từ thùng thực phẩm khô nhà binh hoặc kẻ vội bằng than lò trên các bức tường vôi chính diện hàm xúc một xác định: ngôi nhà của một đời người, một không gian, vùng trú ẩn riêng biệt. Ngôi nhà như một tư hữu bất khả chiếm để ra đi lúc mặt trời lên và trở về khi tan việc, ăn bữa cơm gia đình, nghe tiếng người thân thủ thỉ, con khóc cười bập bẹ tiếng nói lên ba.
Huế đứng vững và tồn tại, không phải vì một vài lời tuyên bố cho rằng hình thức chính thể này tùy thuộc vào trận đánh lịch sử sẽ diễn ra tại Huế. Bởi Huế chỉ là Huế với một đời sống trầm lặng nhưng phản ảnh nhiều màu sắc và hồn tính.
Huế chỉ quyến rũ và mến yêu khi còn được thanh thản nghe tiếng guốc reo vui của đàn chim áo trắng qua cầu Trường Tiền, e ấp trên bến đò Thừa Phủ, buổi sáng bình yên ngồi nhấm nháp tách cà phê nơi quán Lạc Sơn, ăn tô bún giò bốc khói, ớt cay nồng chảy cả nước mắt. Và Huế còn nhiều thứ: bánh ướt thịt nướng Kim Long, bánh bèo chả tôm Vĩ Dạ, bánh canh Nam Phổ, cơm hến Ðập Ðá, bánh khoái cầu Ðông Ba. Bao nhiêu hương vị sẽ mất hết ý nghĩa khi phải nối đuôi, xếp hàng trình phiếu tiêu thụ như người dân Hà Nội phải làm khi muốn ăn một bát phở.
Một ngày trên xứ Huế phải được bắt đầu như thế, sau đó đến sở làm, trường học, thư viện, hiệu sách, chọn cuốn sách mình ưa thích của tác giả mình ngưỡng mộ hay kéo nhau đến nhà thằng bạn thân, đấu láo chuyện thời sự, chuyện đàn bà con gái, nghe nhạc Trịnh Công Sơn, rồi trở về khi nắng chiều đã nhạt trên tháp nước Kim Long, đêm huyền diệu khi những nắm kim cương tung tóe khắp bầu trời xanh thẳm. Một ngày êm đềm đáng sống, khác hẳn “một ngày của Ivan Denisovich”.
Mùa Xuân hoa mai nở, mùa hạ sen thắm trong hồ, mùa thu hoa cúc vàng trước ngõ và mùa đông bếp lửa reo vui. Củi đun lò nhặt từ những nhánh lá khô trong vườn hay mua ngoài chợ, không phải thứ củi hàng rào trộm như bác sĩ Jivago, nhân vật của Boris Pasternak đã làm.
o O o
Bây giờ, nếu trận chiến không diễn ra khốc liệt từ hai tháng qua, Huế đang sửa soạn bước vào mùa thi. Hoa phượng rực đầy lối đi và hương sen ngào ngạt trong hồ nhưng trước cửa phòng thi chưa rộn ràng những đàn chim áo trắng. Hỡi những môi thơm nồng nàn và mắt thăm thẳm hạt huyền của nàng Lara xứ Huế, hãy mang mùa hạ trở về vì Huế là pháo đài của niềm tin sẽ không có điệp khúc “Chanson de Lara” cho Huế.
Túy Hồng, nhà văn nữ sinh trưởng tại Huế, đã phát biểu một nhận định về Huế: “Huế là đất tán chứ không phải đất tụ”. Cho dù Huế là đất tán nhưng trong tâm hồn những đứa con miền Trung vẫn mong mỏi Huế là nơi chốn có thể tìm về bất cứ lúc nào để được nhìn Huế, thở hít không khí của Huế, ăn những món ăn đặc biệt chỉ có ở Huế.
Không bao giờ Huế phải chịu số phận “Quê hương trong trí nhớ.” như Hà Nội. Xin mãi mãi Huế sừng sững, pháo đài của niềm tin và bình yên như bức tranh tĩnh vật.

PVB, 1972
Trần Vũ đánh máy lại tháng 3-2018 từ “Tuyển tập Bút ký Phóng sự Chiến trường 1972”, Nxb Văn Nghệ Dân Tộc in 1973.
(*) hình ảnh nguồn Corbis, Life, Hội quán Phi Dũng, facebookquansuvietnam
Kỳ sau
“Chiến Trường Trị Thiên và Một Ngày Xa Chiến”