Menu Close

Nghĩ về một điều không thể khác

1.

Cách đây khoảng vài tuần, vào buổi chiều, khi tôi đi làm về, bà đầm tôi buông ra một câu thật tự nhiên: “Anh còn sống được vài ba năm nữa!”. Tính bà đầm là vậy! Nghĩ sao là nói thế, không màu mè, không rào trước đón sau lại càng không hoa hòe hoa sói. Có lẽ do cầm tinh con ngựa nên tính bà thẳng như ruột ngựa; lúc đầu tôi thấy khó chịu, nhưng riết rồi quen.

Nghe xong câu nói mà gặp người bệnh tim có thể lăn đùng bất tỉnh, hoặc gặp người yếu yếu cũng có khi đứt thở tức khắc, không cần phải đợi vài ba năm nhưng tôi lại chẳng có chút cảm xúc nào. Tôi chợt nhớ lại một buổi sáng cũng cách đây không lâu, khi chuông báo thức vang lên, tôi rời khỏi giường, lẩm bẩm: “Ước gì không phải đi làm, nằm ngủ cho đã!”. Và, khi đặt chân xuống đất, tôi nghe như có tiếng ai nói bên tai: Còn sống chừng 3 năm nữa thôi mà. Tôi không rõ có phải ai nói bên tai hay trong trí tôi chợt nghĩ nhưng thực sự, chẳng bận tâm, tôi đi làm và quên luôn. Mãi đến khi nghe bà đầm nói, tôi mới nhớ ra, trả lời cũng rất tự nhiên: “Chắc vậy quá!”.

Ngoài những bịnh thông thường của tuổi tác mà hầu như ai cũng mắc phải ra, tôi vẫn đang khỏe mạnh, tuần làm 50 giờ ngon ơ. Thứ Bảy, Chủ Nhật đưa vợ đi chợ, shopping hoặc tà tà vi vu. Ăn uống tốt, duy giấc ngủ thì lâu nay, vẫn thế, không bao giờ tròn giấc. Bia rượu, thuốc lá, thuốc lào: không. Vậy, cớ gì chỉ còn sống được 3, 4 năm nữa thôi? Thời bây giờ chết trước 70 tuổi vẫn bị coi là chết trẻ, dù trong cáo phó chễm chệ hai chữ: hưởng thọ. Chẳng phải, người đời vẫn trêu đùa nhau: “Bảy mươi là tuổi dậy thì” đó sao? Tuy nhiên, “sinh hữu hạn, tử bất kỳ”, ai mà biết trước được?

Nói vậy thôi chứ bà đầm nhà tôi cũng hay “chơi chữ” lắm! Cũng giống như đổi tiền: một đồng mới ăn mười đồng cũ; ba năm của bà đầm phán có khi là 30 năm không chừng. Khi đó, tôi ngót nghét 100 tuổi, chỉ gặp toàn người lạ; lấy ai cùng đi uống cà phê đấu láo, lấy ai cùng đi đây đi đó và lấy ai để… yêu?

2.

Những năm cuối đời, ba tôi vẫn hay hỏi những người đến thăm ông: “Sau khi chết, linh hồn sẽ đi về đâu?”. Bạn bè của ông không ai trả lời được. Tôi nghĩ, trên đời này không ai có thể giải đáp được thắc mắc của ba tôi, kể cả những bậc tu hành. Thiên đường, niết bàn chỉ là những giáo lý và là mục tiêu để rao giảng đạo đức làm người. Con người chỉ biết được linh hồn về đâu khi đã không còn sống nữa. Ba tôi bây giờ chắc hẳn cũng biết linh hồn về đâu nhưng câu trả lời đã không còn cần thiết.

Hồi ấy, không ít người cho rằng, ba già rồi, sinh ra lẩm cẩm, thắc mắc chuyện không đâu. Riêng tôi, tôi hiểu khác. Ba tôi một đời cần lao vì gia đình. Ông sống hiền lành, mẫu mực nên việc linh hồn về đâu, sau khi mất, với ông, không phải là mối bận tâm. Có chỗ nào đẹp đẽ nhất ở cõi khác, chắc chắn, chỗ đó có phần của ba tôi. Ðiều ông lo, là ông có còn đoàn viên với họ hàng, với gia đình sau khi cuộc sống của tất cả người thân của ông không còn nữa. Ông không muốn khi còn sống thì quây quần bên nhau mà khi mất đi, lại tứ tán bốn phương. Ðơn giản vậy thôi!

Tôi bây giờ, không hỏi như ba tôi ngày trước. Nhưng tự thâm tâm, tôi rất mong gặp được ba mẹ để có thể tạ lỗi cùng Người. Sống đến từng này tuổi, việc hỉ nộ ái ố của cuộc đời, tôi trải qua gần như hầu hết. Trong xã hội: từ những người hiền, người tốt, người có nhân phẩm cao quý đến loại người giả nhân giả nghĩa, du thủ du thực, cơ hội lọc lừa, vong ơn bội nghĩa tôi đều gặp qua; thậm chí, nhiều lần phải đối diện. Kể ra, cũng nếm đủ mùi vị cuộc đời thì dù “cưỡi hạc về trời” cũng không lấy gì làm tiếc. Duy, có những điều chưa làm được; những ước nguyện chưa thành thực sự khiến tôi áy náy vì quỹ thời gian không còn nhiều nữa.

Thỉnh thoảng, hai vợ chồng ngồi nói chuyện, tôi vẫn thường nói: Nếu sau này trăm tuổi, anh mong được đi sau em. Chưa nói dứt câu thì bà đầm lại “chém”: “Ðể ông rước mấy con girl về à?”. Tôi gật gù: “Rước hay không thì hạ hồi phân giải. Cái chính là để lo cho bà tròn vẹn chứ tôi mà đi trước thì ai lo cho bà. Con cái yêu quý mẹ nhưng không chiều mẹ như tôi chiều bà đâu”. Bà đầm yên lặng…

nghi-ve-mot-dieu-khong-the-khac
Bảo Huân

3.

Có lần, cũng khá lâu, tôi nằm mơ thấy chở một người phụ nữ, đi trên con đường đầy hoa lá xanh tươi. Trên đường đi, chúng tôi gặp một cây khá lớn, cành lá xum xuê. Trên cây rất nhiều trái, giống hình quả lê nhưng lại là bằng ngọc, bằng vàng lung linh thật đẹp. Giật mình, tỉnh giấc, tôi nhớ rất cụ thể về giấc mơ nhưng không tài nào nhớ được mình đã chở ai. Tôi kể cho bà đầm nghe. Bà “kết luận” liền: “Chở mấy con girl của ông chứ chở ai!”. Chỗ này xin mở ngoặc một chút. Có vợ hay ghen không phải bao giờ cũng chuốc bực bội mà cũng có những thú vị riêng. Có “những phút xao lòng” xảy ra từ vài chục năm trước, mọi thứ đều phủ bụi thời gian, tôi chẳng còn nhớ. Vậy mà bà đầm lại không quên. Bà ngồi nhắc lại và lúc đó, tôi không còn biết bà nói những gì vì đang sống lại những phút giây náo nức của một thời. Tôi cám ơn bà đầm đã “rung lại tiếng chuông của mọi ngày vàng trong quá khứ” để tôi “nghe hồn mình run rẩy trong từng mỗi thanh âm” (Nguyễn Ðình Toàn).

Trở lại câu chuyện viết dở. Tôi vẫn thường có những giấc mơ tuyệt đẹp như vậy. Tôi không phải là người thánh thiện nhưng thực lòng, tôi nhận mình là người lương thiện và tôi yêu quý cuộc sống của mình, dù cuộc đời của tôi không ít lận đận, lao đao; không ít lần khiến tôi “lên bờ xuống ruộng”. Tôi hãnh diện vì có nhiều người tin cậy, yêu thương mình. Tất cả những điều ấy càng làm tôi yêu thêm cuộc sống. Vì thế, nếu phải chia tay nó, dù lúc đó bao nhiêu tuổi, cũng không đành lòng. Nhưng, tôi lại là người tin vào quy luật nên không cưỡng cầu.

Sau buổi chiều nghe bà đầm nói, tôi có dặn vợ và con gái: Nếu sau này ba hết thở, hãy hỏa táng, rồi gửi tạm đâu đó. Khi nào có dịp về quê nhà, đem lên đầu nguồn sông Tam Kỳ – nơi tôi sinh ra, lớn lên và luôn nhớ về – thả hết tro cốt xuống. Vậy là xong một đời người.

Ngày xưa Tăng tử nói: “Ðiểu chi thương tử, kỳ minh dã ai; Nhân chi thương tử, kỳ ngôn dã thiện”. Nay, tuy tôi chưa sắp chết nhưng cũng xin nói một cách chân thành, rằng: Ba hay bốn năm nữa; đó là quãng thời gian ngắn ngủi của đời người. Tôi chỉ còn một mối lo, là sợ không thể thực hiện những tâm nguyện của mình. Chẳng may (chắc chắn là sẽ có), còn điều gì chưa hoàn thành, tôi xin tạ lỗi và kiếp sau, nếu có, sẽ xin báo đền.

Không biết câu chuyện về chiếc cầu Nại Hà và chén canh của Mạnh bà có thực hay không? Nếu đó là sự thật thì tôi xin được một ngoại lệ: Cho tôi được miễn uống chén canh của Mạnh bà để kiếp sau, quay lại, tôi sẽ không quên bất cứ ai, không quên bất cứ điều gì để có thể gặp lại những người mình thương yêu, để làm nốt những gì chưa làm được.

“Thôi, về đi; đường trần đâu có gì” (TCS).

Vâng, tôi thanh thản chờ ngày lộc trời của mình cạn.

LVB