Menu Close

Văn học Miền Nam nhìn từ nhiều phía

Văn Học Miền Nam đã từng phát triển rực rỡ với những tác phẩm giá trị đích thực của nhiều nhà văn tài năng, có tấm lòng với đất nước. Thế nhưng nó đã bị nhà cầm quyền Cộng Sản cấm đoán, thiêu hủy. Trải qua hàng chục năm trong kiếp nạn, kỳ diệu thay, Văn Học Miền Nam vẫn sống cho tới ngày hôm nay và còn mãi mãi. Cát bay vàng lại ra vàng. Các nhà phê bình và người đọc đã đồng thanh xác nhận giá trị của nó. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu một vài bài nhận định tiêu biểu.

Trước hết là cái nhìn của nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc. Ông nhấn mạnh tấn bi kịch của Văn Học Miền Nam và nói lên sức sống của nó. NGUYỄN & BẠN HỮU

Bi kịch thực sự của văn học miền Nam thời 1954-75 chủ yếu là giai đoạn sau 1975.

Hầu hết các cuốn sử hoặc hồi ký về giai đoạn hậu 1975 ở miền Nam đều tập trung chủ yếu vào chính sách lùa các sĩ quan và công chức thuộc chính quyền cũ vào các trại học tập cải tạo, chính sách đánh tư sản mại bản, chính sách ép dân đi kinh tế mới, chính sách dùng hộ khẩu và sổ lương thực để kiểm soát dân chúng, v.v… Nhiều người quên đi một đối tượng mà chính quyền mới sau năm 1975 rất quan tâm, thậm chí, có thể nói, một trong những điều họ quan tâm nhất: văn học nghệ thuật, đặc biệt là văn học.

Trước khi ra lệnh đóng cửa các công ty xí nghiệp tư nhân, chính phủ đã ra lệnh đóng cửa toàn bộ các nhà xuất bản và các nhà sách cũng như quốc hữu hoá hầu như ngay tức khắc các nhà in. Trước khi ra lệnh đổi tiền, chính quyền đã ra lệnh tịch thu toàn bộ sách báo cũ. Cùng lúc với việc bắt bớ các sĩ quan và công chức trung và cao cấp của chính quyền cũ, chính quyền mới tìm bắt hầu hết những cây bút ít nhiều dính líu đến chính trị còn lại trong nước. Trong trại cải tạo, chỉ có giới cầm bút là bị giam giữ lâu nhất, ngang ngửa với các sĩ quan cấp tướng: trên dưới 10 năm.

Không những chỉ có tác giả bị bắt, ngay cả các tác phẩm của họ cũng bị “bắt”. Chiếm Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975, chỉ hơn 3 tháng sau, Bộ Thông tin Văn hoá đã ra chỉ thị cấm lưu hành các tác phẩm bị xem là phản động hay đồi truỵ. Một số chỉ thị có nội dung tương tự lại được lặp lại với những tên sách cụ thể hơn trong các năm sau đó. Trong số những tác giả bị cấm toàn bộ, có những người ít nhiều viết về chính trị hoặc chiến tranh như Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh, Chu Tử, Hồ Hữu Tường, Nguyên Sa, Nhã Ca, Phan Nhật Nam, Thế Uyên, v.v… Ðã đành. Ngay cả những người hầu như chỉ viết thơ tình như Ðinh Hùng, Hoàng Hương Trang hay truyện tình như Tuý Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, v.v… cũng bị cấm. Cấm, dưới tên tác giả, dường như sợ chưa đủ rõ ràng, người ta còn soạn ra một danh sách dài loằng ngoằng gồm tên tác phẩm của từng người.

Bắt tác giả và cấm tác phẩm. Cũng chưa đủ. Người ta còn tổ chức các cuộc hội nghị để vu khống, xuyên tạc và bôi nhọ Văn học miền Nam. Ngoài ra, người ta còn viết bài đăng trên các tạp chí cũng như xuất bản thành sách để tiếp tục công việc vu khống, xuyên tạc và bôi nhọ ấy. Nội dung của chiến dịch vu khống, xuyên tạc và bôi nhọ ấy khá giống nhau; giới cầm bút tại miền Nam nếu không ăn tiền của Mỹ thì cũng tuân theo các chỉ thị của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa dùng ngòi bút của họ như một vũ khí chống cộng. Nếu không chống cộng thì cũng làm sa đoạ con người bằng thứ văn chương đồi truỵ nhầy nhụa mùi xác thịt. Ngay cả với những tác giả hoàn toàn không dính líu gì đến chính trị, không viết về tình dục, chỉ viết về tình yêu một cách đầy thơ mộng của tuổi học trò cũng bị vu cho cái tội tâm lý chiến: ru ngủ tuổi trẻ, để không ai còn quan tâm đến đất nước cả. Như vậy, viết về chính trị: có tội; không viết về chính trị: cũng có tội. Với lối quy chụp như thế, hầu như không có ai trong giới cầm bút miền Nam thời 1954-1975 có thể được xem là có lý lịch sạch cả.

Van-hoc-mien-nam-nhin-tu-nhieu-phia
Nguyễn Hưng Quốc (X) tại Trẻ Magazine năm 2012

Nếu việc bắt bớ và cầm tù các tác giả miền Nam là một chính sách trả thù đối với những người hoặc chống đối hoặc không theo cộng sản trong thời chiến tranh, việc tịch thu và thiêu hủy sách báo miền Nam là một nỗ lực ngăn chận ảnh hưởng của chúng để trong đầu óc dân chúng không có gì ngoài thứ văn học họ gọi là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, trong đó, chỉ có hai màu: hồng cho cách mạng và đen cho các lực lượng phản cách mạng. Riêng việc vu khống, xuyên tạc và bôi nhọ được thể hiện trong các cuộc hội nghị cũng như trên sách báo lại nhắm chủ yếu vào người đọc, nhằm tẩy não người đọc để mọi người xem Văn học miền Nam không có gì khác ngoài tính chất đồi truỵ và phản quốc.

Trong ba mục tiêu ấy, có lẽ chỉ có mục tiêu trả thù nhắm vào giới cầm bút miền Nam của chính quyền mới là thành công. Thành công ở số người cầm bút bị chết trong nhà tù hoặc ngay sau khi rời khỏi nhà tù: Vũ Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Hoạt và Dương Hùng Cường. Thành công ở chỗ giam thật lâu, thật lâu, đến trên 10 năm, một số những người viết văn và làm thơ như Trần Dạ Từ, Tô Thuỳ Yên, Thảo Trường và Phan Nhật Nam. Còn mục tiêu thứ hai, tiêu hủy các tác phẩm văn học của miền Nam, có lẽ họ chỉ thành công có mức độ nhờ hai yếu tố: Một là dân chúng, vì yêu mến nền văn học ấy, cố tìm cách giấu giếm hoặc mua bán lén lút với nhau; và hai là nhờ cộng đồng người Việt ở hải ngoại tìm cách sưu tập và tái bản khá nhiều, ít nhất là những tác phẩm ăn khách nhất.

Riêng mục tiêu thứ ba, nhằm nhồi sọ dân chúng, tôi ngờ là họ không thành công mấy. Tôi không tin là những người từng sống ở miền Nam có thể tin vào các luận điệu tuyên truyền rẻ tiền của chính phủ. Tôi tin điều ngược lại: chính phủ càng lên án Văn học miền Nam một cách ầm ĩ bao nhiêu, càng lôi kéo sự chú ý của dân chúng vào nền văn học ấy bấy nhiêu. Tôi biết có nhiều người, từ miền Bắc vào Nam sau năm 1975, cố tìm kiếm các tác phẩm văn học miền Nam để đọc. Nhà văn Dương Thu Hương có lần kể, sau năm 1975, điều khiến bà ngạc nhiên và, sau đó, làm thay đổi hẳn cách suy nghĩ về chính trị của bà chính là các tác phẩm văn học, cả sáng tác lẫn dịch thuật, mà bà được đọc tại Sài Gòn khi đi thăm gia đình.

Trong các lần về thăm Việt Nam trước đây, tôi gặp nhiều người cầm bút ở miền Bắc. Trong đó có khá nhiều người bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với một số cây bút miền Nam thuở trước, đặc biệt là Thanh Tâm Tuyền và Bùi Giáng, về thơ; Phạm Công Thiện về triết học, Võ Phiến về tuỳ bút, và Dương Nghiễm Mậu về tiểu thuyết. Tuy nhiên, sự ngưỡng mộ của họ hầu như chỉ được bày tỏ trong các cuộc chuyện trò quanh bàn nhậu. Trừ Bùi Giáng, hầu như không có ai được nghiên cứu một cách thấu đáo và công bình trong bất cứ một công trình phê bình nào cả.

Nói một cách tóm tắt, nền Văn học miền Nam giai đoạn 1954-75, cho đến nay, ít nhất với độc giả trong nước, vẫn là một nền văn học bất hạnh: sau khi bị tịch thu và bôi nhọ, nó tiếp tục bị chôn vùi vào quên lãng.

Nguyễn Hưng Quốc

Kỳ tới

Hoàng Vũ Thuật & Trần Hoài Anh