Thập niên 60 những ai từng mua sắm trong thương xá Tax đều biết áo lót mình phụ nữ hiệu Lou làm tại Pháp rất đắt. Ngay đến bây giờ xu-chiêng Lou bán không dưới một trăm Âu kim. Chiếc áo lót ngực sẽ là tâm điểm của câu chuyện một quân nhân đóng đồn hẻo lánh. [Trần Vũ]
Bùi Bảo Trúc
2 kỳ – kỳ 2
Khoảng quá nửa đêm, Việt cộng bắt đầu tấn công. Tôi đang ngủ thì một trái 62 ly rót vào giữa sân trại. Tôi quơ lấy chiếc mũ sắt đội lên đầu. Ðèn đóm tắt hết. Cối 62 ly tiếp tục rót. Binh sĩ trong đồn nhốn nháo. Không ai chờ đợi một chuyện như thế. Mấy hôm trước Tết, tình báo không ghi nhận bất cứ một hoạt động đặc biệt nào của địch. Nửa số binh sĩ trong đồn được xả trại về ăn Tết ở nhà. Chỉ có những lính mới như tôi mới phải ở lại ứng chiến. Tôi khoác khẩu M-16 lên vai, đeo băng đạn lên vai trái, thò tay vào dưới gầm ghế bố lấy chiếc áo giáp ra. Tôi bỗng ngửi thoáng thấy mùi dầu dừa ở vai áo mình. Tôi mỉm cười nghĩ một mình: nếu tối nay có hy sinh vì tổ quốc thì cũng vẫn còn hên hơn nhiều người khác, vì buổi trưa vừa xả xui xong. Tôi nghe tiếng Thiếu úy Út. Ông gọi tôi:
– Ông Chuẩn úy mới đâu rồi? Ông lên ổ đại liên phía cửa nghe ông.
Tôi đáp nhanh:
– Tuân lệnh Thiếu úy.
Bỗng tôi thấy có bàn tay đặt lên vai. Tôi nhận ra Thà. Hắn đưa tôi bốn quả lựu đạn :
– Cầm chơi ông thầy. Chúng nó biển người tới chân thì hãy chơi lựu đạn.
Chúng tôi chạy về phía cổng. Ðạn rít trên đầu. Những trái tracer vẽ những đường lửa đỏ rực trong đêm đen. Tôi vấp phải một bao cát nằm giữa đường suýt ngã chúi xuống. Chạy khoảng ba bốn chục bước thì tới chân cầu thang dẫn lên vọng gác có bố trí khẩu đại liên. Khẩu M-60 có hai người, xạ thủ là Hạ sĩ Bi và Binh nhất Thiệt. Thiệt ngồi đỡ dây đạn, Hạ sĩ Bi tay đặt trên cò súng. Trông họ không có vẻ gì khẩn trương cả. Tôi ngồi bệt xuống bên cạnh hai người, thở hào hển. Ðoạn đường từ căn nhà tôn ra tới ổ đại liên chỉ chừng hơn hai chục thước mà tôi tưởng như dài lắm. Tôi nhớ tới bốn quả lựu đạn, khẩu M-16, bandolier với mười gắp đạn, chiếc mũ sắt và cái áo giáp, đó là chưa kể đôi giày saut. Bằng ấy thứ cũng thừa sức làm tôi mệt lử. Tôi tháo bandolier, gác khẩu M-16 lên vách, lấy một băng đạn, tống vào và lên đạn. Hạ sĩ Bi quay lại, hỏi qua một hơi thuốc :
– Ðụng lần đầu phải không Chuẩn úy?
– Ừ.
– Tụi này thì đều đều. Lâu ngày không đụng về ngủ với vợ hết thấy ngon.
Chúng tôi cười. Nỗi lo sợ bỗng tiêu tan. Vẫn chưa thấy có tiếng súng nhỏ, chỉ mới có pháo 62 ly và vài quả 82. Ðất cát tung lên tứ phía. Ánh lửa lân tinh lóe lên soi sáng rực sân trại mỗi lần một trái đạn rơi xuống phát nổ. Mới là tiền pháo, bao giờ tới hậu xung đây? Tôi vừa nghĩ tới bài học ở quân trường thì ở phía Tây, phía trước cổng trại, bên kia đường, qua khỏi chỗ nghĩa địa, gần chỗ buổi trưa Trung sĩ Thà và tôi tới bắt đầu có tiếng súng nhỏ. Trung liên nồi, đại liên mười hai ly bảy, AK bắn xối xả. Súng cối vẫn rót đều. Trong đồn có người bắn hỏa châu lên trời. Những tiếng vút vút, rồi đốm lửa trên cao lờ lững rơi xuống chầm chậm. Cả một khu trước trại sáng lên, lập lòe vàng ệch ma quái. Những bụi cây ở phía bên kia nghĩa địa chuyển động mỗi lần ánh châu tắt, và khi một quả châu mới sáng lên, thì những bụi cây lại nằm ở một vị trí mới. Tôi nâng khẩu M-16 lên vai. Hạ sĩ Bi nói :
– Còn xa lắm Chuẩn úy, bắn bây giờ tụi nó ngứa, gãi tội lắm…
Bỗng một tiếng nổ kinh hồn phát ra ở phía trái. Một quả bích kích pháo rơi ngay cạnh đống bao cát bên ngoài ụ đại liên. Mấy tiếng chửi thề tục tĩu ở phía dưới. Rồi bỗng đạn súng nhỏ nổ ròn hơn, những bụi cây di chuyển hồi nãy cũng lóe sáng, đạn réo bên tai. Khẩu đại liên bên cạnh nổ chát chúa. Tôi bắn nguyên một băng vào phía trước. Trung sĩ Thà đập tay tôi:
– Từ từ thôi Chuẩn úy. Hết đạn bây giờ… Chuẩn úy thấy có gì không? Em Thảo hỏi thăm Chuẩn úy đó. Tôi thấy đạn từ phía đó bắn ra không à.
Quả đúng như Trung sĩ Thà nói, phía xóm lóe lên những tia chớp, đường đạn chạy vút từ phía những căn nhà hồi chiều tới phía chúng tôi. Tôi không nhớ đã thấy bất cứ một dấu vết gì khác thường ở khu nhà đó. Khu nhà chúng tôi tới cũng giống hệt như những khu gia binh, những xóm nghèo, những khu nhà lụp xụp gần những đồn bót nhỏ. Dăm ba cửa tiệm, một hai quán nhậu, hai ba ổ điếm. Không lẽ những người ở đó đêm nay lại nổ súng vào chúng tôi dữ dội như vậy. Khi địch bắt đầu xung phong thì cũng là lúc tôi nghe tiếng ì ì xa vắng vọng lại. Không phải trực thăng, mà cũng không phải khu trục. Rõ ràng là tiếng “gunship AC-47 puff the magic dragon”. Khẩu đại liên bên cạnh, các thứ súng nhỏ, M-79, cối trong đồn bắn ra điên cuồng. Những xác người đổ xuống bên ngoài, bên trong trại. Chiếc AC-47 đã hiện ra rõ. Hỏa châu được thả ra, rọi sáng hẳn một vùng. Khu nghĩa địa bị súng trong đồn bắn ra cày nát, xác người mới chết và xác người trong quan tài, dưới mộ bị bật lên nằm cạnh nhau. Chiếc gunship đảo một vòng như định lại thế để bắn. Thế rồi từ một bên cánh phía tay phải, một bức tường lửa đổ xuống. Những khẩu Gartling phun ra 6000 viên đạn một giây như vãi một dòng sông lửa xuống phía dưới. Chiếc AC-47 vòng trở lại, nghiêng cánh trái xuống, và những họng minigun lại trút xuống một bức tường lửa của những viên tracer xuống nghĩa địa. Dưới đất, những thây người nảy tung lên như những con búp bê nhỏ xíu. Chiếc gunship vòng lại một lần thứ ba nữa, lầm lũi, thảnh thơi trút sự chết chóc xuống một lần nữa rồi mới đi, khác hẳn những phi vụ khu trục lúc nào cũng vội vã, nóng nảy, hay những trực thăng UH-1D xẹt xẹt ào xuống rồi lại bốc lên ngay.
Súng nhỏ tiếp tục nổ thêm chừng một tiếng đồng hồ nữa, thưa thớt rồi bặt hẳn. Trời lúc đó cũng gần sáng. Ban quân y bận rộn lo băng bó cho những người bị thương. Tôi bị một mảnh đá vụn văng vào mí mắt bên phải. Vết thương không nặng lắm mặc dù có chảy nhiều máu. Trong đồn có hai nghĩa quân chết, khoảng hơn chục người bị thương, vũ khí được bảo tồn…
o O o
Khoảng 6 giờ sáng, chúng tôi được lệnh lục soát khu nhà ở mé bên kia nghĩa địa. Chúng tôi đi theo hàng một men theo đường lớn. Phía bên trái là nghĩa địa. Những cành cây địch dùng để ngụy trang buổi tối hôm trước nằm vương vãi khắp nơi. Những chiếc lá đã bắt đầu héo trong ánh nắng buổi sáng mai. Một số những ngôi mộ xây bị bắn nát. Vài chiếc quan tài bị cày lên, tung nắp. Xác địch la liệt, nằm chết đủ kiểu. Những mớ tóc còn phất phơ bay trong những cơn gió sớm. Họ mặc đủ mọi loại quần áo. Một số mặc đồng phục chính quy, một số mặc bà ba đen, vài người chỉ mặc quần cụt. Máu đã đông lại, quyện lấy bùn đất. Những đôi mắt mở trợn trừng, những cánh tay giơ lên, những cái chân như còn muốn vùng lên để chạy. Cách lối quẹo vào xóm chừng gần một trăm thước thì bỗng ở phía trước mặt có súng bắn ra. Mới đầu là một quả B-40 bay xẹt qua đầu chúng tôi, rơi xuống phía sau chiếc xe jeep của đại úy trưởng đồn. Kế đó là AK quét dọc trên mặt lộ. Chúng tôi lăn xuống vệ đường tìm chỗ núp. Rồi hai ba quả B-40 khác bắn tới. Khẩu M-60 trên xe jeep bắt đầu nổ. Hai người lính được đại liên bắn che, đứng dậy bắn liên tiếp gần một chục quả M-79 vào chiếc quán nhỏ, nơi xuất phát của những quả B-40 trước đó. Chúng tôi nhoài lên, nổ súng về phía xóm nhà. Ðạn ở trong xóm bắn ra, ở ngoài bắn vào. Tôi bỗng nghĩ tới Thảo. Cô ta ở đâu trong những giờ phút như tối hôm qua, và trong lúc này? Tôi nhớ tới Nga, đáng lẽ cô ta phải về quê ăn Tết. Tại sao lại kẹt ở đây giữa chốn binh lửa này? Nếu buổi trưa hôm qua tôi không theo Trung sĩ Thà xuống xóm này thì liệu giờ đây, ngón tay trên cò súng của tôi có nhẹ nhàng hơn bây giờ không?
Trận đánh kết thúc nhanh chóng. Chỉ khoảng 15 phút sau, súng đã dứt. Chúng tôi tiếp tục di chuyển từ từ về phía khu nhà. Chiếc xe jeep đi đầu, xạ thủ đại liên sẵn sàng nhả đạn. Những người lính đi đằng trước tôi đã tới được cái quán nhỏ. Cái quán bây giờ chẳng còn gì. Mái đã sập xuống. Tấm bảng thiếc kẻ tên quán chỉ còn được ghim lại trên chiếc cột bằng một cái đinh, đồ đạc trong quán đổ vung vãi ra đằng trước. Không có một chỗ nào trên mặt tiền không lỗ chỗ những vết đạn. Ðằng sau, khói còn bốc lên, hình như do những quả M-79 hồi nãy bắn vào.
Khi tôi tới nơi, thì những người lính đến trước đã vào bên trong quán lôi ra hai cái xác. Hai cái xác mặc quần áo đen. Một người lính cúi xuống, một tay cầm súng, một tay lục soát cái xác mặc quần cụt. Trong túi áo có một số giấy tờ rơi ra. Tôi tiến vào qua đám người trong xóm hiếu kỳ vây xem. Máu trong người của cái xác mặc quần cụt vẫn tiếp tục chảy ra, ngoằn ngoèo loang ra phía bậc vào bằng xi măng. Hai người lính khác thì lục soát cái xác kia. Bỗng một trong hai người kêu lên:
– Lính cái Việt cộng nè chuẩn úy.
Một người kéo chân cái xác ra phía ngoài. Người chết mặc áo bà ba đen, quần đen. Trên người còn đeo hai quả đạn B-40. Chiếc mũ vải che một nửa khuôn mặt xám ngoét. Mái tóc ngắn. Một dòng máu đỏ tươi ứa ra từ màng tang bên trái. Máu tiếp tục chảy ra. Chắc người này mới chết trong trận đánh hồi sáng. Tôi chống báng súng, quỳ một chân xuống. Tôi thò tay gạt chiếc mũ vải sang một bên. Tôi sựng lại. Khuôn mặt không còn nguyên vẹn. Hơn một nửa từ mũi trở lên bị phá mất, chỉ còn một đống óc máu me bầy nhầy. Tôi nhìn đôi tay, một tay kẹp dưới lưng khi những người lính kéo cái xác ra. Tay kia nằm hờ hững trên mặt đất. Nổi bật trên những viên gạch bông là những ngón tay trắng, móng tô đỏ, màu đỏ gắt. Tôi thò tay cầm lấy ngón tay trỏ bàn tay phải. Làn da phía bụng của đốt thứ hai tấy lên, khô cứng. Ðúng là bàn tay buổi trưa hôm trước tôi đã nắm. Ngón tay trỏ có chai chỉ có thể có được trên những bàn tay cầm súng. Người lính lục soát tiếp tử thi. Tôi thấy hình như xác còn ấm. Một khoảng bụng trắng hiện ra khi người lính thò tay lục chiếc túi áo bên kia. Một chiếc cúc áo bị đứt. Tôi định tâm tìm thử dấu vết cuối cùng. Qua lần gấp của một bên áo, là chiếc soutien màu da người. Chiếc soutien LOU viền đăng ten trắng nhạt. Bộ ngực người chết bất động. Không còn nhấp nhô theo nhịp thở như trong buổi trưa hôm trước. Tôi cảm thấy chóng mặt. Tôi đứng dậy, rẽ đám đông đang vây quanh hai xác chết. Trời sáng, trong và xanh cao. Tôi thấy hai tai lùng bùng. Tôi bước ra phía cột đèn, ngồi xuống, mệt mỏi vô cùng.
Tôi thèm một điếu thuốc để dằn cơn buồn ói xuống. Như thế là đúng hai mươi tiếng đồng hồ. Kể từ trưa hôm trước tới tám giờ sáng hôm nay. Hai cái xác giờ đây chỉ cách nhau có chừng sáu thước mà tưởng như vạn dặm. Một cái xác là tôi, đờ đẫn ngồi dưới chân cột đèn, khẩu M-16 nằm ngang trên lòng. Ðôi giày bê bết bụi đường. Và một cái xác nằm chết ở cửa quán. Trong bộ áo treillis tôi đang mặc vẫn còn dấu vết của những ngón tay có móng sơn màu đỏ gắt. Trên người của cái xác nằm kia có thể cũng còn dấu vết của bàn tay tôi. Nếu không có cái soutien LOU, chắc tôi chẳng thể nào nhận ra tông tích, nếu gọi đó là tông tích của người chết.
Tôi cúi xuống cổ áo mình. Thoảng đâu đây còn mùi dầu dừa nhè nhẹ.
BBT 1987
Trần Vũ đánh máy lại tháng 4-2018 từ nguyên bản trên Văn Học số 15 tháng 4-1987
(*) Ảnh minh họa nữ tài tử Ayase Haruka & quảng cáo của nhà thời trang Lou