Sản phẩm trị liệu
Khi đạo luật Pure Food & Drug Act of 1906 được ban hành, chính phủ Hoa Kỳ bắt đầu kiểm soát nguyên liệu rao bán như thuốc men, thì con buôn xoay ra bán những món hàng trị liệu khác.
Một lang (băm) lẫy lừng trong thế kỷ XIX – XX là Bác sĩ Albert Abrams, tốt nghiệp trường Y Khoa Heidelberg, Ðức; nguyên Vice President của the California Medical Society và President của San Francisco Chirurgical Society. Ông này sáng chế ra cách chữa trị bệnh đau cột sống bằng cách dùng búa gõ vào xương sống, và mở lớp dạy bá tánh với giá 200 Mỹ kim (thời giá năm 1910) học phí. Ông ta còn là tác giả của nhiều món trị liệu khác như đo sự “rung động” của cơ thể để chẩn bệnh. Làm cách nào để đo? Mua cái máy “Dynamizer” của ông ấy về là tha hồ. Chỉ cần 1 giọt máu, một tờ giấy viết tay hay một tấm hình là cái máy phi thường kia “đọc” ra tất cả mọi bệnh tật trong cơ thể! Thần bí hơn là việc dùng một mảnh nam châm để “hút” đi mọi sự rung động có thể khiến máy đọc lầm trước khi dùng các mẫu đo kể trên. Tốt nhất là người bệnh nằm đầu hướng về phía Tây, trong phòng tối… Bác Sĩ Abrams rao bán một mớ máy móc khác như “Radioclast”, “Reflexophone”, “Radio Disease Killer”. Ngày nay các sản phẩm kể trên được rao bán như đồ cổ ngoạn cho người sưu tầm; chiếc máy Reflexophone có bảng giá 1,600 Mỹ kim!

http://www.nolindan.com/lindancollection/ql209.html
Một nhân vật khác lẫy lừng không kém, là ông John Romulus Brinkley, nhà bán… nước miếng qua hệ thống truyền thanh và những lời quảng cáo vô cùng hấp dẫn như: “Bạn là một người đàn ông đầy sức sống?”, và món thuốc đem lại “sức sống” mãnh liệt là nước cất pha màu chích vào mạch máu! Ông này đã từng vào tù ra khám về tội lừa gạt, nhưng thủa ấy chẳng mấy ai rõ tông tích, trừ những người làm ăn mật thiết với ông ta. Bắt chước phong trào ghép mô tinh hoàn từ người chết hoặc từ khỉ vào tinh hoàn quý ông trong tuổi vàng để gia tăng tính dục, ông Brinkley ghép tinh hoàn dê để chữa chứng liệt dương tại “Dr Brinkley Hospital”. Khi ông Brinkley mở rộng xưởng ghép tinh hoàn đến Chicago thì bị chính quyền địa phương đóng cửa. Bị xua đuổi, ông Brinkley di chuyển đến Los Angeles và dùng radio để buôn bán, ông ta mở luôn một đài phát thanh để bán các sản phẩm của mình. Bị chính phủ Huê Kỳ đóng cửa tiệm, đóng cửa đài phát thanh, ông Brinkley qua Mexico làm ăn tiếp, vẫn đài phát thanh quảng cáo bán dịch vụ trị bệnh. Ở Del Rio, ông Brinkley rộng tay hơn nữa, dám cắt luôn ống dẫn tinh của bệnh nhân và nhỏ thuốc đỏ lên vết cắt! Tính đến cuối năm 1939, tài sản thu góp được lên đến 12 triệu Mỹ kim!
Ðến năm 1940 thì ông Brinkley sập tiệm, bệnh nhân thưa kiện tới tấp, bị xử tội và phải bồi thường, ông này tẩu tán tài sản và khi chính phủ Mexico cũng cấm buôn bán, tòa nhà “bệnh viện” bị thân nhân người bệnh không đòi được tiền bồi thường phóng hỏa đốt cháy, ông này lên cơn đau tim và qua đời.

Ðiện lực
Từ khi người cổ Hy Lạp khám phá ra rằng sự cọ xát giữa một miếng cao su và mảnh đá sẽ tạo ra từ trường thu hút những sợi rơm, thì có người đoán rằng con người bị… thu hút bởi điện lực.
Sau khi ông Michael Faraday, người Anh, sáng chế ra chiếc máy phát điện đầu tiên và ông Thomas Edison giúp điện lực trở nên vật gia dụng qua bóng đèn, thì các tay buôn bán sức khỏe cũng theo bén gót, các vật dụng chữa bệnh dùng điện lực hay “electropathy” bắt đầu xuất hiện.
Thay vì uống thuốc men và chờ kết quả, người ta dùng điện lực để chữa bệnh và thấy hiệu quả ngay lập tức như việc co giật các bắp thịt mà không do chủ nhân điều khiển. Hầu hết các dụng cụ trị liệu này chạy bằng pin, hoặc bằng nam châm tạo ra điện lực, và chữa bá bệnh từ đau mắt đến liệt dương.
Nổi tiếng nhất là món thắt lưng điện, dùng vào việc chữa bệnh đặc biệt cho quý ông và ngay cả chữa bệnh tiểu rắt. Người dùng đeo thắt lưng và mở máy, dòng điện kích thích thần kinh và sự tuần hoàn của máu huyết. Ðặc biệt là “Giant Power 80-Gauge Belt” được quảng cáo là chữa mọi chứng bệnh thần kinh do bất cứ nguyên nhân nào; sau khi dùng sẽ trở thành một người đàn ông hùng dũng, khỏe mạnh, đầy sức sống!

Cách chữa trị khác bao gồm việc cắt một ống dẫn tinh để chữa liệt dương và súc rửa trực tràng (đặt ống vào hậu môn) bằng nước lạnh để chữa chứng sưng trướng tuyến nhiếp hộ.
Vào đầu thế kỷ XIX, chứng giang mai được chữa trị bằng cách ngồi và thả túi chứa tinh hoàn (scrotum) trong một chậu nước rung động qua dòng điện.
Từ khi ông Nikola Tesla sáng chế ra tia sáng tím (violet ray) dùng để kích thích tế bào và gia tăng sức đề kháng thì các sản phẩm dính dáng đến tia cực tím bắt đầu xuất hiện. Món “Marvel Violet Ray” dùng để chữa sưng trướng tuyến nhiếp hộ bằng cách mang sức nóng đến mọi tuyến trong cơ thể và tạo hiệu quả lập tức!

Từ trường
Bá tánh bị thu hút vì sự bí ẩn của từ trường nên việc dùng từ trường vào việc trị liệu trở nên phổ thông nhanh chóng. Ông Franz Anton Mesmer, người Ðức, tin rằng cơ thể con người có hai đầu, như cái nam châm. Dùng nam châm di chuyển trên thân thể từ đầu đến chân sẽ gia tăng sự tuần hoàn và gia tăng việc hồi phục qua luồng năng lượng được gọi là ‘fluidum’. “Fluidum” là nguồn năng lượng thiên nhiên di chuyển qua mọi sinh vật, trời và đất (từa tựa như khái niệm “khí” của Ðông Y). Khái niệm này dẫn đến việc ông Mesmer bỏ quách từ trường và chỉ chú trọng đến việc chuyển năng lượng (nguyên khí) từ sinh vật này sang sinh vật khác, bất kể đó là một khúc cây hay một chậu nước.
Cách trị liệu của ông Mesmer bị Vua Louis XVI (qua một hội đồng giám định Y khoa có cả ông Benjamin Franklin người Hoa Kỳ tham dự) bác bỏ, cho là vô dụng và cấm dùng để buôn bán.

Tại Hoa Kỳ, từ thế kỷ XVIII, người ta cũng dùng từ trường để chữa bệnh. Món hàng phổ thông nhất là “Perkin’s Patented Metallic Tractor”, gồm 2 khúc kim loại, 1 đồng 1 sắt, dùng từ trường để “hút” bệnh tật ra khỏi cơ thể! Khái niệm này được chứng minh bởi một bác sĩ cùng thời là vô dụng.
Ngày nay, từ trường được dùng trong các cỗ máy móc để chẩn bệnh như MRI nhưng vẫn có người tin rằng từ trường “hút” sắt trong máu và kích thích sự tuần hoàn nên những chiếc vòng “từ trường” tiếp tục phổ thông.
Phóng xạ
Bà Marie Curie và ông chồng Pierre đã khám phá ra phóng xạ nguyên tử năm 1897 và những năm sau đó, bá tánh nhanh chóng dùng phóng xạ để chữa bệnh tật.
Ðằng sau khám phá khoa học nọ, chính nhà bác học Marie Curie cũng bị nhiễm độc phóng xạ; các ngón tay bị phỏng nặng và bà ấy chết vì hoại huyết sau khi chất phóng xạ đã hủy hoại tủy xương.

Một loại thuốc được chế biến để chữa liệt dương (chứng bệnh không mấy ai nhìn nhận nhưng mọi người đều muốn chữa trị!) bao gồm mesothorium và radium có tên “Radithor”. Người dùng bị trúng độc radium nổi tiếng nhất là triệu phú Eben M. Byers. Ông này đã dùng 1,000 – 3,000 lọ thuốc Radithor trong vòng hai năm, và khi qua đời ngay cả hơi thở của ông ấy cũng chứa chất phóng xạ!
Dù như thế, bá tánh vẫn dùng nước chứa chất phóng xạ, nhà xây bằng cát uranium và mỏ radon để chữa viêm khớp xương hay lao phổi. Người ta dùng cả kính chứa phóng xạ để chữa cận thị, glaucoma, retinitis; chữa viêm cuống họng, viêm thanh quản và khản tiếng!
Cho đến ngày nay, vẫn có những “trung tâm sức khỏe” là những hầm mỏ vàng, uranium xưa cũ được đem rao bán cho người muốn trị bệnh. Hồ tắm radon vẫn phổ thông tại Nga Sô.
Tạm hiểu khi thân thể bị bệnh tật hành hạ đau đớn, khi có người tiêu thụ cả tin là ta có thầy lang, thầy lang thang và lang băm, hình như thời đại nào cũng thế? In hệt như câu nói để đời của văn hào Marcel Proust, cũng là người bị suyễn kinh niên: Bệnh tật là thầy lang mà ta vâng lời trước nhất. Trước lòng nhân ái, kiến thức ta chỉ hứa hẹn. Trước sự đau đớn ta vâng lời, và vâng lời với mọi giá.
TLL
Tài liệu
https://www.britannica.com/science/history-of-medicine
http://americanhistory.si.edu/collections/search/object/nmah_1296185
https://www.historyonthenet.com/quackery-brief-history-quack-medicines-peddlers/
Fishbein, M., The Medical Follies: An Analysis of the Foibles of Some Healing Cults, including Osteopathy, Homeopathy, Chiropractic, and the Electronic Reactions of Abrams, with Essays on the Anti-Vivisectionists, Health Legislation, Physical Culture, Birth Control, and Rejuvenation, Boni & Liveright, (New York), 1925.
https://www.nytimes.com/2005/11/15/health/mcqueens-legacy-of-laetrile.html