Phạm Tăng là một nghệ sĩ tài năng. Ông xuất hiện nổi bật thời báo Tự Do và là bạn thân của Như Phong. Theo tài liệu của Đinh Quang Anh Thái, Phạm Tăng sinh năm 1924 tại Ninh Bình-Bắc Việt, học ngành Kiến Trúc trước khi chuyển sang hội họa ở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Vẽ hí họa cho nhật báo Tự Do từ 1954 tới 1959, tuần báo Văn Nghệ Tự Do năm 1956. Một số hí họa châm biếm trên Tự Do và Văn Nghệ Tự Do của ông đã khiến ông bị bắt, giam ở khám Catinat một thời gian ngắn. Được xuất ngoại học thêm năm 1959, ông lấy được bằng tốt nghiệp của hầu hết các khoa ở Viện Mỹ Thuật La Mã (Accademia di Belle Arti di Roma): Hội Họa, Trang Trí, Điêu Khắc, Thiết Kế Sân Khấu. Ông được giải nhất về Hội Họa của tổ chức UNESCO với bức tranh “Vũ Trụ” năm 1967, và nhiều giải thưởng quốc tế quan trọng khác. Ông mất tại Pháp đầu năm 2017.
Ngoài hội họa, Phạm Tăng còn sáng tác thơ. Thơ ông thuộc dòng cổ điển, phản ảnh thân thế và thời thế, đây đó có khí vị của Phật và Lão Trang. SAO KHUÊ

Gương thề mặt đá
I
Người đi thủa trước mình đi tiễn
Đến lượt mình đi, thiếu một người.
Mảnh đất từ đây, ai ấp ủ
Gương thề mặt đá, bóng trăng soi. (1959)
II
Trăng soi mấy chục năm rồi
Mộ không để đó đợi người nằm chung.
Ai làm cách trở núi sông
Kẻ ôm đất lạnh, người không đường về…
Trăng soi vằng vặc gương thề
Lấy ai khuya sớm đi về có nhau? (1984)
III
Huyệt trống mồ hoang trả núi sông
Cốt thiêu, tro bụi gửi cho chồng
Duyên hờn phận tủi tan lòng đất
Phách bướm hồn hoa nhập cõi không!
Kẻ khuất ngàn trùng quên tục lụy
Người đi muôn dặm chết trong lòng
Cổ kim muôn vạn pho tình sử
Chép lại gì chăng? Một chữ: “Không” (1985)
Múa bút vườn hoang…
Múa bút vườn hoang vẽ láo chơi
Xôn xao sỏi đá nói nên lời
Đỏ xanh xáo trộn hồn cây cỏ
Nhẹ gót vào tranh… chiếc lá rơi…
(1973)
Dòng sông
Lỡ tay khua động mái chèo
Bao nhiêu hy vọng bọt bèo lại tan
Xuôi dòng Nhân Quả mênh mang
Cánh bèo phó mặc tràng giang vô tình.
Bốn bề sương khói u minh
Nghe trôi không biết trôi mình về đâu?
Cúi nhìn thăm thẳm sông sâu
Nước gương soi nửa mái đầu bạc phơ!
Trần gian tháng đợi năm chờ
Bao giờ ghé bến Hư Vô hỡi Thuyền?
Tâm tư trĩu nặng ưu phiền
Có Ai vợi rót khoang thuyền với Ta? ….(1953)
Đề bức tranh “Vũ Trụ”
(“Lớn vô cùng, nhỏ vô cùng”)
Trông lên thiên thể bao la
Nhìn vào sâu thẳm trong ta mịt mùng
Xác thân: vạch nối đôi vùng
Khoát tay một nét: cuộn vòng càn khôn!
Đất trời, mở rộng tay ôm
Phút giây xuất Ngã [1], bền hơn cuộc đời ! (1981)
[1] Ngã: Cái tôi, chú thích PT.
Gửi bạn*
A.
“…Anh về mây gió thong dong
Tôi còn mù mịt cuốn trong bụi trần
Hình hài nặng trĩu gót chân
Đôi vai chồng chất nợ nần thế gian!
Từ nay, gió núi trăng ngàn
Phiêu diêu, Vĩnh viễn, Vẹn toàn là anh
Không còn đầu bạc, đầu xanh
Bên trên nghiệp chướng Sinh – Thành – Hoại – Không.
Một mình bao quát Mênh Mông
Nhớ anh, bát ngát… kìa! trông Mây Trời…
Mây ơi! Mây có nhớ người,
Cao bay! xin chớ ngậm ngùi tuôn mưa,
Thế gian, nước mắt có thừa
Càng mưa thêm nước, càng nhơ vũng lầy!
Đất bùn ngập cả cỏ cây
Gột sao sạch nước non này, Mây ơi!
Đường mây, Mây cứ về trời
Cao xanh thăm thẳm, tuyệt vời Mây bay…
Tiếc thương chi kiếp đọa đày
Dưới này lắm kẻ giơ tay níu trời.
Tha hương, đây có một người
Đốt thơ, gửi khói lên trời thăm Mây.”
B.
“Trả lại buồn thương cho thế gian
Trăm năm rũ sạch dấu tro tàn
Sinh ra – Có đó – không còn nữa
Một dấu chân mờ, một bóng vang…
Không cái Tôi này – không xác thân
Không SAU, không TRƯỚC, chẳng XA – GẦN
Không ĐI, không ĐẾN, không CÒN – MẤT
Vũ trụ và tôi MỘT, bất phân!!!”
*Thơ khóc Như Phong