Từ đầu Tháng Sáu, Nam Cali đã bắt đầu trở lại thời tiết nóng và khô, tám giờ tối vẫn còn ánh nắng mặt trời. Ban ngày chỉ muốn trốn trong nhà, sau 7 giờ nắng dịu mới có thể ra ngoài. Thời tiết như vậy, mua khóm (tên khác là dứa, thơm) về ăn giải nhiệt là ngon nhứt.
Chợ ở Nam Cali bán khóm được trồng ở các nông trại của người Mễ. Trái lớn nặng trĩu, trung bình khoảng hai ký lô một trái, mắt khóm lớn nhưng hơi phẳng và cạn, lớn gần gấp đôi khóm Việt Nam. Nhìn trái khóm thấy phát ham luôn, tôi nghĩ bụng chắc là ngon lắm. Khi mua về gọt ra ăn mới thấy “thất vọng tràn trề”. Ôi thôi! Khóm xanh thì lạt nhách, màu vàng nhờ nhờ, chua lè, vừa dai vừa cứng. Mà lựa trái khóm già rồi để vài ngày cho nó chín thêm, gọt ra mùi không thơm, màu vàng nhạt, cùi chính giữa bự hơn ghi-đông xe đạp một chút. Vị chua chua ngọt ngọt, khi ăn có cảm giác dai và cứng hơn khóm Việt Nam rất nhiều. Còn khoản “rát lưỡi” thì coi như khóm Mễ có thể giựt giải “Giang hồ vô đối” (không có đối thủ). Ăn một miếng (1/8 trái) thì đã bị rát lưỡi, nói chung mùi vị không ngon để ăn. Chỉ xắt nhỏ ra nấu canh chua (bỏ cùi), hoặc cho vô máy xay sinh tố, cho thêm đường, để vô tủ lạnh cho lạnh rồi uống thì ngon. Giá bán trung bình $2.5/trái, tương đương 60 ngàn hồ tệ.
Thực tế thiệt là phũ phàng luôn! Làm tôi nhớ trái khóm quê tôi ngày tôi còn nhỏ quá chừng chừng. Khóm Việt Nam trái nhỏ hơn, mắt nhỏ hơn và sâu hơn. Khi chín bay mùi thơm, gọt ra có màu vàng tươi đậm hơn, cùi chính giữa nhỏ bằng ngón tay út. Nếu khóm chín có mùi thơm thì ăn ngọt lịm, mềm và giòn, ăn được một nửa trái lớn mới có thể bị rát lưỡi. Dùng ăn sống (khóm chín xắt miếng chấm muối ớt), xào, nấu canh, làm mứt, xay uống (lựa trái còn hơi xanh một chút) đều ngon.
Lúc sinh thời, cha tôi rất ghiền ăn món khóm xào bột theo kiểu Tiều (Triều Châu). Nếu dượng Bảy tôi là hàng “võ lâm cao thủ” thuộc loại “vô đối” về khoản giành phần vô bếp “độc quyền” bắt cả nhà phải ăn món chanh muối do dượng Bảy nấu (trước đây tôi đã từng kể về dượng Bảy làm món cá mặn chưng gừng đăng báo Trẻ Magazine), thì cha tôi cũng “cạnh tranh nghề nghiệp” chẳng kém dượng Bảy chút nào. Ở nhà, cha tôi “độc quyền” giành phần vô bếp xào hết chảo khóm này đến chảo khóm khác cho cả nhà ăn đến ngập mặt, ăn ngán đến lỗ mũi (ngán tới bảng họng là còn thấp). Bây giờ đụng khóm Mễ, ngày hè nóng nực xay khóm Mễ uống mà không dám ăn, thì tôi đâm ra thèm khóm xào bột của cha tôi quá trời hà.
Ngày trước, cha tôi thường mua mỗi lần hơn chục trái khóm, lựa trái già nhưng còn xanh, trái vừa chín tới nửa xanh nửa vàng, trái chín nhừ màu vàng sậm luôn. Trái chín nhừ đem về gọt ra cho anh em tôi ăn liền, miếng khóm vàng hườm, ngọt lịm, thơm phức, không cần phải chấm muối ớt, không rát lưỡi. Trái mới chín hườm hườm cha tôi gọt ra xào bột. Trái còn xanh thì để đó, vài hôm nữa nó chín tới thì ăn tiếp tục. Trái khóm ngon là trái khóm mắt nở lớn, cùi khóm còn nguyên nhỏ bằng ngón tay trỏ, phần lá trên đầu trái khóm nhỏ, trên dưới trái khóm tròn đều bằng nhau như hình trụ, đó là khóm già trái. Cho dù lúc mua nó còn xanh thì để thêm vài bữa nó cũng chín ngọt. Còn trái khóm độ lớn trên dưới không đều nhau, mắt nhỏ và sâu, chùm lá trên đầu còn bự và dài, cùi khóm bự, thì đó là trái khóm chưa lớn hết cỡ, nếu thấy nó vàng cũng là chín héo, ăn không ngọt mà còn bị rát lưỡi nhiều hơn khóm già.
Khóm xào bột cũng gọt vỏ, tiện sạch mắt khóm như bình thường, rửa sạch để ráo nước, nhưng không xẻ dọc trái khóm thành từng miếng dài dài như ta ăn sống, cũng không xắt khoanh tròn như khi ta kho với cá ngừ. Cha tôi chờ trái khóm ráo nước thì cầm dựng đứng trái khóm lên, lấy dao mỏng gọt xuống xung quanh trái khóm theo chiều đứng, mỗi miếng dày chừng một phân. Cứ gọt vòng quanh trái khóm hết lớp này đến lớp kia, đến lúc còn trơ cái cùi nhỏ bằng ngón tay chính giữa trái khóm thì bỏ ra cho bọn con nít chúng tôi chấm muối ớt ăn sống. Gọt như vậy, xào xong ăn miếng khóm không bị dai, mà nhìn miếng khóm nó có hình bông hoa lục giác nối nhau nhìn rất đẹp mắt.
Cha tôi phi mỡ tỏi, cho thịt ba rọi xắt miếng mỏng lớn bằng hai ngón tay vô xào trước, nêm nếm gia vị đầy đủ (muối, bột ngọt, không cần cho đường vì khóm đã ngọt sẵn). Sau đó cho khóm vô xào luôn. Khi thấy khóm chín mềm mới vừa xào vừa rưới chén bột mì đã pha nước lạnh vô chảo khóm, cứ xào tới xào lui cho bột không khét chảo, khi thấy bột chín thì cho hành lá xắt khúc vô sau cùng. Hành chín thì nêm nếm lại cho vừa miệng, tắt lửa, nhắc chảo xuống khỏi bếp. Ðể chảo trên bếp thì hơi nóng còn lại có thể làm cho bột bị khét. Nếu không có bột mì thì xài tạm bột gạo cũng được luôn, nhưng không được thay thế bằng bột nếp, bột năng (bột mì tinh) quá dai, ăn không bùi nữa.
Khóm xào bột với thịt ba rọi ăn có vị beo béo của thịt, mùi thơm của mỡ tỏi, vị ngọt ngọt chua chua của khóm, vị mằn mặn của muối, và cái sền sệt là lạ bùi bùi của bột thấm gia vị. Bới một nửa tô cơm, xúc khóm xào cho lên trên, ăn ngon miệng vô cùng, chỉ cần một món như vậy là đủ. Nếu không xào thịt ba rọi thì có thể xào với tép tươi đã lột bỏ vỏ, lòng gà, vịt, lòng heo cũng đều ngon, mỗi thứ có cái ngon riêng của nó.
Sau này, thập niên 80 dân chúng ở xứ lúa quê tôi mà cũng thiếu gạo ăn, ăn thịt heo (bầy nhầy bạc nhạc) theo tem phiếu phân phối mỗi gia đình một tháng được nửa ký lô, thịt ngon chẳng bao giờ thấy Hợp tác xã bán cho dân. Cha tôi thường xào khóm và bột chớ không có miếng thịt, miếng lòng nào nữa. Vậy mà ăn cũng thấy không đến nỗi tệ, chắc tại thiếu ăn quá nên không còn “kén cá chọn canh” gì được. Thời điểm này, trứng gà, trứng vịt là cái gì đó rất “sang trọng”, xa vời, cả năm có lúc không thấy cái trứng nào. Âu cũng là “nhờ ơn đảng, ơn bác, ơn nhà nước” đó mà!
Tóm lại là khóm Việt Nam ngon hơn khóm Mễ rất nhiều. Chợ ở Nam Cali có bán đủ loại trái cây xoài, mít, khóm, sầu riêng, lê, táo, nhãn, vải…. (sấy khô, đóng hộp, còn tươi) từ Thái Lan, Ðài Loan nhập qua. Trái cây Việt Nam không thâm nhập được thị trường Mỹ dù phẩm chất ngon như hàng Thái, Ðài, và ngon hơn hàng Mễ.
Cách đây vài hôm, tôi đọc báo trong nước thấy nông dân Thanh Hóa trồng khóm không bán được, vứt bỏ đầy đồng. Những nơi khác nông dân trồng khóm bán với giá rẻ mạt. Tại Hậu Giang, khóm loại 1 giá ba ngàn rưỡi hồ tệ/trái, loại 2 là một ngàn rưỡi hồ tệ/trái.
Lâu nay, nông dân là giai cấp nghèo nhất Việt Nam, bán giống gì cũng phải “giải cứu”, cũng bị mất giá, đã nghèo giờ đây thêm mạt rệp. Trách nhiệm này, tội ác này đối với dân chỉ có thể là bọn cộng sản độc tài đang nắm quyền cai trị đất nước, chớ không ai khác. May phước tôi đang ngồi ở Mỹ mà viết câu trên, chớ ở Việt Nam thì tôi có “cơ hội” bị tống cổ vô tù lần thứ hai bởi Luật An ninh mạng, vì tội dám quy trách nhiệm và “sỉ nhục lãnh đạo”, “sỉ nhục đảng cầm quần”, ý lộn, cầm quyền.
TPT