Phạm Văn Bình sinh trưởng ở Đông Hà, Quảng Trị. Quê nội: Thừa Thiên.
Trước 1975, Sĩ Quan Tâm Lý Chiến kiêm Phóng Viên Chiến Trường của Sư Đoàn TQLC/VNCH.
Có thơ văn đăng trên tạp chí Khởi Hành, Văn, Bách Khoa, Ngàn Khơi… Bài thơ ‘Năm năm rồi không gặp’ được Phạm Duy phổ nhạc với tựa đề ‘Chuyện Tình Buồn’ rất nổi tiếng.
Sau biến cố 30 tháng 4, 1975 ông đi cải tạo rồi cùng gia đình sang định cư ở Cali.
Phạm Văn Bình qua đời ngày 22-7-2018.
Thơ Phạm Văn Bình mang phong cách thơ tiền chiến nhưng có những nét riêng, ý tình chân thật, sâu sắc khiến người đọc cảm xúc. SAO KHUÊ
năm năm rồi không gặp
Năm năm rồi không gặp
Từ khi em lấy chồng
Anh dặm trường mê mải
Ðời chia hai nhánh sông
Phong thư tình ngây dại
Ðường xưa quen lối về
Trong mịt mùng gió cuốn
Nghe nhạt nhòa mưa qua
Ngày nhà em pháo nổ
Anh cuộn mình trong chăn
Như con sâu làm tổ
Trong trái vải cô đơn
Ngày nhà em pháo nổ
Tâm hồn anh rướm máu
Ôi nhát chém hư vô
Ôi nhát chém hư vô
Năm năm rồi ly biệt
Một mầu tang ngút trời
Chúa buồn trên thánh giá
Nằm trơ vơ gác chuông
Năm năm rồi trở lại
Từ khi em lấy chồng
Thương người em năm cũ
Thương góa phụ bên song
nhạt nhòa mưa qua
em về ngại tóc mưa bay
mênh mang nỗi nhớ ngất ngây nỗi buồn
tuổi hồng vỗ cánh qua truông
thời gian nước lũ, thiên đường mù khơi
em về rũ áo ra phơi
vàng phai kỷ niệm một đời nhớ nhau
héo hon trời đất một màu
trăm con sóng vỗ chân cầu xót xa
nghe trong tâm thức mù lòa
chiều nghiêng tháp cổ mây xa cuối nguồn
em về ấm lửa mùa đông
hồn khô củi đượm bếp hồng reo vui
mưa ru ta giấc ngậm ngùi
đêm sâu gác hẹp, sụt sùi mưa qua
chiếu chăn vẫn lạnh cơn mơ
nghe trong gió thoảng người xưa bước về
trông ra hiu quạnh bốn bề
đèn vàng, mưa đục, bốn bề quạnh hiu
em về nắng cũng hồng theo
ngựa hoang bước mỏi xuống đèo sáng nay
em về tay ấm trong tay
mặt trời tỉnh giấc gọi ngày hồi sinh.
tường trình cho em
Tháng giêng xuôi quân ra xứ Huế
cố đô tan hoang, gạch ngói điêu tàn
không còn thấy áo em bay chiều bãi học
tóc thề đã quấn khăn tang
Tháng hai về trấn giữ ven đô
chong mắt hỏa châu ghì súng giữ cầu
Gió thoảng ngạt ngào hơi rượu mạnh
qua màn sương lơi lả ánh đèn mầu
Ba lô lên vai đến miền Tây đô
quê hương em xanh ngát bóng dừa
đêm ngủ bìa rừng thèm làn môi ấm
ngọt trái sầu riêng những lúc sang mùa
Bây giờ đã tháng tư trời mây vào hạ
mẹ chắc đang sửa soạn đi lễ chùa
và em nguyện cầu cho anh mỗi tối
cho người miệt mài sớm nắng chiều mưa

Tháng năm diễm kiều những vì sao biếc
hoa phượng nở đầy sân trường
ngày xưa e ấp những tờ lưu bút
bây giờ cho nhau phong thư gửi tròn nhớ thương
Tháng sáu rồi anh vẫn miệt mài
bận hành quân nên chưa về thăm em
đừng khóc nghe em như ve sầu tháng hạ
xa thì rất nhưng làm sao quên !
Tháng bảy về mưa ngâu bay bay
ô hay lòng ta sao bỗng dưng sầu ?
tráng sĩ đi hề thét roi cầu Vỵ
thiếp tại Tương giang vĩ
quân tại Tương giang đầu
Tháng tám bé thơ chơi đèn kéo quân
huyền thoại hằng nga cũng không còn
tất cả đã tàn như giấc mơ hiệp sĩ
thực tế làm trái tim chúng ta khô cằn
Tháng chín đổ quân bên bờ Cửu Long
trái vú sữa căng như mạch sống mẹ hiền
anh đi cho đồng thêm xanh, trái thêm ngọt
chiến công này xin gửi tặng em
Về Cà Mau viết thư cho em
lời gió thương mây, chim nhớ thương rừng
xin đừng trách anh dù mỏi mòn chờ đợi
“Sao anh đi hoài thế anh ?”
Mưa đã mịt mù từ vùng biển
nhớ đan áo mùa đông trời trở lạnh rồi em
thiên hạ rộn ràng may áo cưới
anh vẫn còn đi, hẹn năm tới nghe em !
Hoa mai nở đầy và em đang chờ
Mười hai tháng rồi dài những ước mơ
nhớ má cho hồng, nhớ môi cho ngọt
anh về bên em cùng đón giao thừa.
PVB
(nguồn: Thơ Miền Nam trong thời chiến Tập I, Trần Hoài Thư sưu tập , Thư Ấn Quán xb)
* Bài này ký tên Phạm Tương Như, một bút hiệu của nhà thơ Phạm văn Bình, được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc dưới tựa “Mười Hai Tháng Anh đi”