Menu Close

Dương Kiền & Mùa Gặt Giữa Hư Vô

Dương Kiền là tác giả quen thuộc của văn học Miền Nam. Ông sinh năm 1939 tại Huế và mất ngày 17-11-2015 tại Na Uy. Là luật sư nhưng Dương Kiền sinh hoạt văn học nghệ thuật từ hồi niên thiếu. Từng là chủ bút tạp chí Văn Học trước 1975, Dương Kiền viết đủ loại và đoạt giải thưởng Văn Chương toàn quốc với vở kịch ‘Sân khấu’. Ra ngoại quốc, ông hoàn thành và cho xuất bản tập thơ Mùa Gặt Giữa Hư Vô.

Dương Kiền là con rể của nhà văn Nguyễn Thị Vinh và Trương Bảo Sơn, và là bạn thời trẻ của nhà văn Song Thao. Nhân đọc ‘Mùa Gặt Giữa Hư Vô’, Song Thao có bài viết nhận xét về thơ Dương Kiền trích đăng sau đây. NGUYỄN & BẠN HỮU

Song Thao

Nhận được tập thơ tôi say sưa đọc, và làm một việc hơi tẩn mẩn là quay vòng thời gian, cố tìm lại cái nét Dương Kiền ba mươi năm trước nơi thơ Dương Kiền ba mươi năm sau. Và tôi thấy cái nhiệt tình của những bài thơ tranh đấu xưa, nay thấp thoáng trong thơ anh:

‘hãy đứng dậy, đứng dậy

chết hay là Tự Do

Tự Do hay là chết

ta không cần cơm no

ta cần nói cần nghĩ

ta cần nghe, cần nhìn

nghe thật và nhìn thật

không cần nghe mẹ mìn”

Vẫn cái bầu nhiệt huyết của những năm tháng cũ, nay sôi sục trong thơ anh:

“ta về theo dấu chân thần thoại

hơi thở no say cả lá rừng

nghe vọng lời xưa bài Ðại cáo

máu sôi thành lệ bỗng trào dâng”

Vẫn cái ngạo nghễ của con người không bao giờ chịu khuất phục:

“từ trong những nỗi căm hờn

thơ ta ngạo nghễ con đường ta đi

rồi trăm năm cỏ xanh rì

ta không nuối tiếc chút gì hôm nay

từ trong những nỗi đắng cay

tay không ta vỡ luống cày hư vô

xin gieo hạt ngọc bây giờ

mai sau vàng trải lối xưa ta về”

duong-kien
Dương Kiền (1939-2015)

Nhưng tôi cũng bắt gặp cái bóng chiều của thời gian luẩn quẩn trong thơ anh. Cái ngạo nghễ có lẽ đã được đội thêm mái tóc điểm sương và bầu nhiệt huyết hình như đã có pha thêm mật đắng. Nước mất nhà tan, kẻ chết người còn, lưu lạc tứ tán thì còn chí khí nào không sứt mẻ què quặt. Tôi thương những câu thơ như:

“hôm qua đọc một bài thơ cổ

ta mộng mài gươm dưới ánh trăng

chợt tỉnh trông ra trời Bắc cực

mênh mông tuyếp phủ một màu tang”

hoặc:

“trồng trúc làm như mình kẻ sĩ

hiên ngang chẳng sợ gió mưa đâu

sợ chứ, mưa thu buốt chết được

gió xuân quân tử cũng phờ râu”

Khi anh hạ chữ “phờ râu” tôi thấy lại cái giọng dí dỏm khôi hài của anh, hình như mường tượng đâu đây cái nụ cười nửa khinh bạc, nửa chế giễu ngày xưa:

“ngày 30 tháng ba

lót tót chạy về Phan Thiết

lót tót chạy về Sàigòn

cờ tướng vẫn bay oai hùng lẫm liệt

trên cột cờ Bộ Tư Lệnh

nhưng tướng ở đâu

bố ai biết ?

cứ chạy cái đã ra sao thì ra

kệ bà thằng nào không sợ chết”

Nghe thấy muốn cười nhưng nụ cười có thể đính kèm một giọt nước mắt. Mà thôi, hãy quên giọt nước mắt đi để thấm giọt mồ hôi của những người tù trại Long Giao đào giếng:

“đất Long Giao cứng hơn kim cương

nước Long Giao quý hơn nước vô thường

hồ lô đức Quán Thế

trời tháng tư đổ lửa

không thấy nước đâu chỉ thấy mồ hôi chảy trên lưng

ngựa Người

kéo những thùng đất từ đáy huyệt sâu đào mả cha nó

đỉnh cao trí tuệ loài người”

Chúng ta có thể nhặt ra được rất nhiều nụ cười cay đắng như vậy trong thơ của Dương Kiền. Tôi chỉ xin đọc ra một nụ cười rất thoải mái mà tôi rất ưng ý:

“thứ hai dậy sớm

đi làm lúc bảy giờ ba mươi

thứ ba dậy muộn

đi làm lúc tám giờ mười lăm

thứ tư nộp tipping

thứ năm làm tình

lúc mười giờ hai mươi

(ban đêm đấy nhé)

thứ sáu thật khỏe

khỏi dạy chung với em Vera già khú đế

thứ bảy xem phim X

tẩn mà tẩn mẩn một mình

chủ nhật dẫn chó đi chơi

qua nhà thơ nghe trộm tiếng cầu kinh

thứ hai dậy sớm

đi làm lúc bảy giờ ba mươi”

Hình như tôi không còn ở tuổi để đọc những bài thơ tình nhưng sao thơ tình của Dương Kiền cứ luẩn quẩn trong đầu tôi. Những bài thơ dễ thương chi lạ. Những câu thơ tròn trịa, xinh xắn vừa đủ một vòng ôm:

“ngực em có nốt ruồi son

hồng như trái chín no tròn mắt ta

tay em có những ngón ngà

khiến ta bỗng thấy da gà nổi lên”

hoặc những bài thơ tình nồng đậm vị quê hương :

“tóc em say say mùi bồ kết

miệng em thơm thơm mùi quế chi

da em nồng nồng hương dạ lý

nửa đêm chết giấc gã tình si”

“chê em lẳng quá không thèm yêu

bây giờ lại nhớ biết bao nhiêu

tìm đâu cho được hương bồ kết ?

cho được làn môi cắn chỉ điều”

Tôi còn muốn đọc ra đây nhiều bài thơ tình nữa cho đã, nhưng không dám làm mất cái thú vị của quý vị khi có tập thơ “Mùa Gặt Giữa Hư Vô” trong tay, nên chỉ xin đọc thêm 4 câu mượt mà nữa thôi:

“nhắn em ngày ấy năm xưa

có hai đứa trẻ giả vờ yêu nhau

bây giờ hai đứa bạc đầu

suốt đời vẫn cứ yêu nhau giả vờ”

ST