
Kỳ 3
Một bóng hồng giơ tay chận xe tôi. Người đẹp nhoẻn miệng cười tươi, hàm răng tuyệt đẹp,
– Xin lỗi Trung úy, em muốn hỏi thăm Thiếu úy Chân ở Ðại Ðội 1 Tiểu đoàn 11.
Bốn chàng sĩ quan nhìn nhau,
– Cô có lầm không? Tất cả bốn đứa sĩ quan Ðại Ðội 1 đều ngồi trên xe này. Không có đứa nào tên là Chân cả.
Cô gái tần ngần,
– Anh Chân, cao cao, trăng trắng, tóc bồng bềnh, mang kiếng mát Ray-Ban, thường đi cùng ông đại úy mặc áo “Sô Dù” đại đội trưởng. Hai anh ấy hay ghé nhà em mỗi khi về phố…
Ngồi trên ghế tài xế, Thiếu úy Duyên bỗng nhảy nhổm, vỗ đùi,
– Ðúng rồi! Thiếu úy Chân Ðại Ðội 1. Ðúng rồi! Ðể chúng tôi đi kiếm giùm cho cô ngay bây giờ. Chào cô, chúng tôi đi nghe!
Cô bé lại nhoẻn miệng cười, lí nhí tiếng cám ơn, rồi lui lên lề, nhường đường cho xe chúng tôi đi.
Tôi chẳng hiểu nếp, tẻ, mô, tê gì cả, nhưng không tiện hỏi.
Khi đã ngồi yên chỗ bên bàn ăn trong Quán Ngọc-Lan, Duyên mới nói nhỏ cho tụi tôi vừa đủ nghe,
– Có mấy lần về phố nhận tiếp tế, tui bắt gặp thằng Cheng và “cha nội đại úy học nghề” thậm thụt khu xóm Chùa. Hình như nhà cô bé này cũng ở gần đâu đó. Ðể chiều nay về, tôi khảo thằng Cheng là rõ ngay.
Sáng ngày kế đó, lúc xách nước cho tôi rửa mặt, Hạ sĩ Nguyễn Lác cười hì hì,
– Thằng Cheng nó đổi tên là Chân, lên làm thiếu úy đại đội phó cho ông đại úy đại đội trưởng Ðại Ðội 1 cả tháng nay. Tất cả bà con trong xóm Bàn Ðèn Thuốc Phiện sau chùa Phật Giáo, ai cũng biết. Chỉ có các ông thầy Ðại Ðội 1 là không rõ đó thôi!
Tôi chợt vỡ lẽ ra, hiểu chuyện, bật cười.
Binh nhì Triệu Cheng, anh em thường gọi đùa là “Triệu Ðại Gia” vốn là cháu đích tôn của ông chủ hãng nhôm Triệu-Ðà trong Chợ-Lớn.
Vào một đêm mưa buồn giăng giăng, sau Tết Mậu – Thân, điếu thuốc gắn trên môi, “Triệu Công Tử” đang lang thang trên phố vắng không đèn thì bị Tuần Cảnh Biệt-Khu Thủ-Ðô chận đường. Cheng bị tóm cổ, thảy lên xe, đưa về Trung-Tâm Quản-Trị Trung-Ương. Binh nhì Triệu Cheng có mặt ở Ðại Ðội 1/11 trước ngày tôi xuất viện trở về chỉ huy đơn vị.
Mấy ngày sau, Ðại Ðội 1 phải di chuyển bộ từ cầu Trắng lên sân vận động, chờ trực thăng vào vùng. Vì có lệnh di chuyển gấp, Triệu Cheng không kịp đút cái nồi nấu cơm của anh vào trong bao cát. Cái nồi nấu cơm của thầy trò anh được móc vội trên ba lô. Cái nồi đen đong đưa theo bước chân Cheng…

Ðoàn quân đi qua xóm Chùa, dân chúng túa ra đường vẫy tay.
Xe Jeep của đại đội dừng lại trước Cà Phê Duyên. Tôi bước xuống đứng bên đường, chờ tài xế Châu Minh Ðạt chạy đi mua mấy ổ bánh mì.
Tôi nghe nhiều tiếng gọi,
– Anh Chân ơi! Anh Chân ơi!
– Thiếu úy Chân! Thiếu úy Chân! Vào nhà bác nghỉ mệt một lúc rồi đi tiếp.
Ði trong hàng quân, Triệu Cheng nhe răng cười. Anh đưa tay khoát khoát, chối từ những lời mời chào.
Anh giở nón sắt ra, cầm tay. Cặp kiếng mát Ray-Ban thật xứng với khuôn mặt thư sinh trắng trẻo hồng hào. Trong bộ tác chiến rằn ri, trông anh đẹp trai như một nam siêu sao trong phim cao bồi màn bạc Mỹ.
Những em bé đứng bên đường, có lẽ quen anh, trầm trồ kháo nhau,
– Ông thiếu úy mà cũng vác nồi đi hành quân. Ông thiếu úy bình dân quá, chịu chơi quá tụi mày ơi!
Khẩu M16 đeo vai, ba lô trên vai, Triệu Cheng vẫn bước khoan thai. Cái nồi nhôm đen, đeo bên hông ba lô, đung đưa theo nhịp bước anh đi.
Tôi nghĩ, trong số những bàn tay vẫy vẫy tiễn đưa đoàn hùng binh ra trận ngày hôm ấy, thế nào cũng có bàn tay của cô bé xóm Chùa, cô bé có hàm răng tuyệt đẹp.
Cũng từ hôm ấy, gia tài đại đội tôi có thêm giai thoại “Ông Thiếu úy Bình Dân”
o O o
Mùa Thu trên Cao Nguyên…
Mỗi lần Ðại Ðội 1/11 về Liên-Khương thì cái lều vải của tôi lại được căng trước sân tư gia của ông chủ xưởng cưa Ðức-Trọng.
Lần nào cũng vậy, vừa thấy mặt tôi, cô cháu gái của ông chủ đã mừng rỡ,
– Chào Trung úy mới “dìa”! Bác Ba ơi! Ông Trung úy Bắc Kỳ “dìa gồi” nè!
Giọng nói đặc sệt Hậu-Giang của cô bé, tôi không nghe quen, nên thấy ngộ.
Bà vợ ông chủ xưởng cưa kể chuyện lai lịch cái tên Thu Bình của cháu bà cũng hàm ý lịch sử. Mùa Thu năm 1954 Hiệp Ðịnh Paris được ký kết, chiến tranh Pháp Việt chấm dứt, Việt-Nam hòa bình. Cháu bà sinh ra vào cuối mùa Thu đất nước thanh bình, nên được đặt tên là Thu Bình.
Như vậy, phải hai, ba tháng nữa Thu Bình mới đủ mười bốn tuổi. Ấy thế mà anh thiếu úy đại đội phó cứ cắp đôi cô bé này cho tôi. Cái anh Ðặng Hữu Duyên này thực là vô duyên hết chỗ nói!
Anh ta còn lấy tên “Thu Bình” làm danh hiệu cho khẩu đội đại liên M60 của đại đội.
Trước đó, khẩu đội súng cối 60 ly của Binh nhứt Lê Văn Ngẫu đã bị anh Duyên khoác cho cái tên “Kim Cương”, vì ở Pleiku có một cô nữ sinh diễm kiều nhảy đầm rất giỏi tên là Kim Cương. Kim Cương và hai chị gái của cô đều thích Biệt Ðộng Quân. Sau này Kim Cương kết duyên với anh Hoàng Kinh Ngữ, Biệt Ðộng Quân thuộc Tiểu Ðoàn 23.
“Tình báo gia binh” sao mà thính tai đến thế! Chúng tôi chưa tổ chức hầm hố xong, bầu đoàn thê tử của Ðại Ðội 1/11 đã từ Ðà-Lạt ào xuống một xe cam nhông, đầy đàn bà và con nít. Các bà vợ lính đem con từ Pleiku xuống chờ chồng lĩnh lương.
Tôi nói với các ông trung đội trưởng tìm cách “du di” cho những quân nhân có gia đình đôi chút thời giờ để họ có thể chăm sóc vợ con.
Ông chủ xưởng cưa cho phép thân nhân của đơn vị tôi được sử dụng dãy nhà chứa ván, vỏ, làm nơi tạm trú.
Ðời Biệt Ðộng, sống nay, chết mai. Hạnh phúc của những gia đình Biệt Ðộng là cái hạnh phúc “được phút nào, hay phút nấy!” Có lẽ vì thế mà bất cứ hành quân nơi nào, dù xa hậu cứ Pleiku cách mấy, chỉ cần dừng lại đôi ngày gần nơi thị tứ, có đường xe đò, là vợ con binh sĩ tìm tới ngay.
Thân nhân binh sĩ trong đơn vị nhìn ông đại đội trưởng như người anh cả. Khi gia đình gặp cảnh khó khăn, họ không ngại ngùng đến nhờ tôi giúp đỡ. Anh chàng nào lạng quạng, có bồ, có bịch, hay cờ bạc, bê tha, bỏ thí vợ con là biết tay tôi ngay.
Các chị cũng hay áy náy về chuyện vợ con của ông đại đội trưởng.
Mỗi lần thấy bóng tôi đi ngang qua khu gia binh, các chị thường ân cần: “Trung úy cưới vợ cho có người tiếp tế lúc đi hành quân xa đi Trung úy ơi! Trung úy cứ kén chọn hoài! Tụi em chờ mãi chưa thấy Trung úy mời ăn xôi gấc!”
Những lúc đó, tôi chỉ cười trừ. Chẳng biết trả lời các chị ấy sao cả. Vì lấy vợ đâu phải là chuyện dễ? Lấy vợ mà giản dị như xung phong chiếm một ngọn đồi thì tôi đâu có còn độc thân cho tới hôm nay?
Nhà ông chủ xưởng cưa có cái máy lạnh chạy bằng đèn dầu lửa. Binh nhứt Trung thường gửi bia lạnh của tôi trong tủ lạnh này. Tôi và ông chủ xưởng cưa thường ngồi đối ẩm nói chuyện đời vào những chiều sương rơi.
Bãi cỏ bên kia Quốc lộ 20 là sân bốc của trực thăng.
Chúng tôi tập trung bên này đường, đội ngũ chỉnh tề. Càng trực thăng vừa chạm đất, chúng tôi đã ào sang, sẵn sàng leo lên. Cứ tám người một con tàu. Cứ bốn mươi người, một cánh quân. Có khi cánh quân của tôi bị thảy xuống cách cánh quân của Thiếu úy Duyên hàng chục cây số.
Chúng tôi vào vùng, rồi chuyển vùng xoành xoạch.
Mưa theo chân chúng tôi từ bãi đáp này, sang bãi đáp khác. Rừng già Cao Nguyên lạnh quanh năm. Ði rừng vào mùa mưa còn thêm nhiều nỗi khổ. Ðường trơn như tráng mỡ. Muỗi vắt đông vô kể.
Một sáng, đơn vị đang di chuyển trên đường voi thồ trên núi Voi thì tao ngộ chiến.
Hai bên mới bắn nhau vài băng AK, và M16, lính Trung Ðội 1 của Thượng sĩ Ngọ đã đè lên nhau, chạy thục mạng về phía sau. Thiếu úy Duyên đi đầu cùng Trung Ðội 1 cũng chạy bán sống bán chết.
Tới chỗ tôi, anh hổn hển,
– Thái Sơn! Chạy mau! Chạy mau!
Tôi dang hai tay, chặn đường, níu áo Duyên,
– Dừng lại! Dừng lại! Làm gì kỳ vậy?
Duyên giựt áo khỏi tay tôi, mặt tái mét, lắp bắp,
– O…o…ong!…Ong vò vẽ! Chạy mau! Chạy mau!
Duyên xô tôi một cái, rồi phóng đi, nhanh như bay.
Tôi và hai anh cố vấn Mỹ tụt lại sau cùng.
“Vo!…o…o…Vo!…o…o…Vo!..o…o…”
Cha mẹ ơi! Ðàn ong như một đám mây đen đặc đang ào ào kéo tới.
Những con ong hung hãn lao “vèo!… vèo!” như mưa rào xuống đầu ba đứa chúng tôi.
–Run! run! run!… (Chạy! chạy! chạy!…)
Vừa la lên bằng tiếng Anh, tôi vừa co giò.
Hai tay tôi có găng da đi rừng, tôi xòe hai tay che cổ và mặt.
Những tiếng “đốp!…đốp!…đốp!” “độp!…độp!…độp!” liên tiếp nổ trên cái mũ đi rừng, làm tôi thót tim từng chặp. Tụi ong vò vẽ này đánh tàn bạo thiệt!
Tôi chợt nhớ ra hai quả khói đeo trên dây ba chạc, ngay ngực. Tôi cúi người xuống, dùng răng rút đại một cái chốt an toàn. Quả khói vàng bung mỏ vịt. Tôi chạy tới đâu khói vàng mịt mù tới đó. Tôi phải nín thở, nếu không, tôi có thể chết ngộp chứ không phải chơi.
Tôi chạy tới khi quả lựu đạn khói vàng hết xịt khói thì dừng lại. Ðàn ong cũng không còn truy kích nữa.
Tôi la lớn,
– Anh Duyên ơi! Bác Ngọ ơi! Cho đại đội dừng lại. Bố trí kiểm quân!
Ðại đội nhanh chóng vào đội hình. Trong đội hình đó, tôi nổi bật lên, sáng choang. Từ đầu chí chân, toàn thân tôi nhuộm khói vàng. Ði trong rừng mà ngụy trang kiểu này thì thằng địch, dù bị thong manh, cũng tác xạ trúng mình cái tróc!
Kiểm quân xong, chỉ thiếu có một anh Trung sĩ cố vấn Mỹ da đen. Chuyến hành quân này, toán cố vấn Mỹ chỉ có một hạ sĩ quan và một binh sĩ truyền tin, không có sĩ quan đi theo đơn vị tôi.
Có ba anh lính của đại đội chậm chân, bị ong đánh cho khờ khạo, phải đi cà lết. Anh Mỹ trắng chạy sau lưng tôi cũng bị ong “chơi” cho năm bảy mũi. Cũng may, anh ta có cặp chân dài, vừa phóng lên, anh ta đã bỏ tôi lại đằng sau. Cái ba lô của anh, đựng chiếc PRC 25 bị ghim đầy xác ong. Ong chích xong, là chết bỏ xác. Loài ong này thiệt là anh hùng!
Tôi cũng bị ong đánh một phát trúng gáy. Chỉ một phát thôi cũng đủ làm cho tôi cảm thấy xương sống gây gây như muốn lên cơn sốt.
Tôi ra lệnh cho đại đội dò dẫm trở lại trận địa. Lựu đạn khói đi trước, quân ta tiến theo sau.
Anh Trung sĩ cố vấn Mỹ da đen, to như một con bò, nằm một đống giữa đường. Anh chàng vừa rên hừ hừ vừa co giựt chân tay. Anh cố vấn đang lên cơn sốt. Anh đau đớn, lăn lộn, vật vã. Tôi gọi y tá đại đội lên “lụi” cho anh ta một mũi Peniciline.
Chúng tôi tiến tới vị trí chạm súng. Một cái nón cối vỡ nằm trỏng trơ trong vũng máu giữa đường. Những con ong đen đang chui rúc trong bãi óc và máu trên thi thể tên Việt-Cộng. Hắn bị trúng nhiều vết đạn trên người.
Trên mặt đường voi đi, hai khẩu AK nằm cách nhau không xa, có vài vỏ đạn AK vương vãi đây đó.
Hạ sĩ Nghết, người khinh binh đi đầu đơn vị nói,
– Vừa tới khúc quanh, tui nghe tiếng người nói chuyện phiá trước, tui đưa súng lên, bóp cò liền. Tụi nó có bắn lại. Tụi nó bắn lên trời.
Ông Nghết hạ được một tên tại trận. Tên thứ nhì vứt súng, nhào vào bụi. Nó đạp sập một ổ ong vò vẽ. Vò vẽ phản công, đuổi Ðại Ðội 1/11 chạy vắt giò lên cổ.
Tôi cho một trung đội lục soát quanh triền đồi. Tên Việt-Cộng thứ nhì nằm chết cách ổ ong chừng hai chục mét về hướng suối. Hắn bị thương ở ngực và đã chết trên đường thoát thân.
Tôi cho người võng anh Trung sĩ Mỹ đen đi theo đại đội. Chúng tôi tìm hướng chui ra một bãi cỏ tranh.
Tôi gọi tiểu đoàn cho trực thăng tản thương. Ba anh lính Biệt Ðộng Quân Việt-Nam và hai anh cố vấn Mỹ mặt mày sưng vù, miệng rên ư ử, run lập cập, theo nhau leo lên tàu về Ðà-Lạt.
Sau lần hành quân này, tiểu đoàn được cho nghỉ dưỡng quân vài ngày trong thị xã Ðà-Lạt.
Ðại đội tôi đóng quân trên ngọn đồi nơi đầu đường dẫn vào thành phố.
Chỉ cần một buổi là xong việc tái tiếp tế, tái trang bị. Bốn chàng sĩ quan của Ðại Ðội 1/11 lại leo lên lưng con tuấn mã mang số 103472, rồ ga.
Chiếc Jeep mui trần nhong nhong khắp nơi, từ Phở Ðắc-Tín, qua Cà Phê Tùng, tới Phở Bằng, lên Rạp Ngọc-Lan, xuống Rạp Diên-Hồng, vào cư xá sinh viên đại học, rồi cuối cùng, về “diễn binh” quanh khu Chợ Hòa-Bình.
Những cánh phượng vỹ cuối mùa phủ đầy con đường thơ mộng bên bờ hồ Xuân Hương. Ðó đây, từng cặp, dập dìu, nam thanh, nữ tú. Những bước chân vô tình đạp trên xác hoa. Tôi thấy trong số những anh kép đang cặp tay người đẹp, đi loanh quanh, hết lên đồi, xuống dốc, lại xuống dốc, lên đồi, có vài ba anh rằn ri, nón nâu…
Hình như sau Tết Mậu-Thân, dân chúng Ðà-Lạt hết ghét bỏ Biệt Ðộng Quân rồi? Xe qua phố nào, tôi cũng thấy những bàn tay vẫy, những nụ cười.
Xe tấp vào lề, đậu bên tam cấp dẫn xuống chợ. Thiếu úy Duyên trao tay lái cho tài xế. Bốn chúng tôi tà tà lượn một vòng quanh bùng binh, ngắm những bóng hồng từ Sài Gòn lên. Chợ hoa rực rỡ muôn mầu. Bên đường, nhiều xe du lịch đậu nối đuôi nhau.
Tôi vừa định kéo ba ông bạn chui vào Cà Phê Tùng, thì một ông rằn ri già đứng bên đường la oang oang,
– Các cha nội về đơn vị đi hành quân gấp! Các cha nội ơi!
Người vừa kêu réo chúng tôi bỏ thành phố để vào rừng là ông Ðại úy Voòng Lập Dzếnh, tiểu đoàn phó.
Hôm ấy là Chủ Nhựt, Chủ Nhựt mà cũng không được nghỉ. Ðời Biệt Ðộng, suốt tuần lễ, ngày nào cũng là…Thứ Hai.
Chúng tôi trở lại chỗ đậu xe. Xe đi đâu mất rồi?
Bà già bán chuối chiên bên đường nói với tôi,
– Xe của Trung úy bị Quân Cảnh kéo về Quân Trấn rồi!
Bà có thấy chú tài xế đâu không?
– Cậu ấy bỏ xe đi mua cái gì đó, lúc quay trở lại thì xe đã bị kéo mất. Cậu ta sợ quá nhờ một anh đi xe gắn máy chở đi tìm xe rồi.
Một chiếc Jeep Biệt Ðộng Quân xuất hiện; tôi nhờ quá giang lên Văn Phòng Quân Trấn.
Quân Trấn Ðà -Lạt nằm trong một khách sạn nhìn ra Hồ Xuân Hương. Chuẩn tướng Tư Lệnh Task Force South hiện nay kiêm nhiệm luôn chức vụ Quân Trấn Trưởng Ðà-Lạt.
(còn tiếp 1 kỳ)