Menu Close

Nhà văn Lê Xuyên

Lê Xuyên tên thật là Lê Bình Tăng, sanh năm 1927 tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ. Từng hoạt động cho Ðại Việt Quốc Dân Ðảng. Ông vào nghề báo qua sự giới thiệu của Vương Hữu Ðức – Tổng Thư Ký tờ Sài Gòn Mai (1963) với trách nhiệm viết tiểu thuyết trường thiên. Trước đó ông chỉ làm thơ. Tác phẩm văn xuôi đầu tiên có tên “Chú Tư Cầu”, xuất bản năm 1965 và lập tức được đón nhận nồng nhiệt đến độ từ đó người ta gọi ông với biệt danh thân thương là: “Chú Tư Cầu Lê Xuyên”. Tuy nhiên những tác phẩm sau cũng bán rất chạy như: Rặng Trâm Bầu, Vợ Thầy Hương (1965), Ðêm Không Cùng (1966), Kinh Cầu Muống (1968), Vùng Bão Lửa (1969), Nguyệt Ðồng Xoài (1970) v.v.

Từ năm 1963 tới 1975 ông giữ chức Tổng Thư Ký cho Dân Ý, Thời Thế, Thần Phong… và được xem là người rất tận tụy, có trách nhiệm với vai trò nặng nề của mình. Văn phong Lê Xuyên đồng nhất và hầu như chỉ cần viết đối thoại đặc biệt Nam Bộ mà thành ra truyện, ra văn, ra tiểu thuyết đầy đủ mọi ngây thơ đến quỷ quyệt khôn lanh.

Sau biến cố năm 1975 ông phải đi học tập cải tạo. Về sống lây lất không căn cước hộ khẩu, ngày ngày ngồi bán thuốc lá lẻ trên đường Nguyễn Kim, Chợ Lớn. Lê Xuyên qua đời ngày 2-3-2004, thọ 78 tuổi.

nha-van-le-xuyen
Nhà văn Lê Xuyên

Sinh thời, Lê Xuyên được nhiều bạn văn yêu mến. Nhà văn Văn Quang, trong bài viết về những ngày cuối đời của Lê Xuyên, cho biết trong những ngày Lê Xuyên nằm bệnh, Văn Quang là một trong những người bạn hết lòng giúp đỡ. Ông dặn vợ Lê Xuyên có gì thì gọi ông. Văn Quang viết:

Từ hai năm nay, Lê Xuyên nằm một chỗ, có thể nói thẳng nằm đó chờ ngày “về với ông bà”. Một năm trước đây thôi, anh phải vào bệnh viện, chị cũng gọi cho tôi, chị cho tôi xem giấy “nhập viện” của anh và số tiền phải trả. Tôi cũng lại làm cái nhiệm vụ thông báo cho một số anh em ở nước ngoài để kiếm tiền trả bệnh viện. Không phải chỉ có riêng chúng tôi mà còn những người quen khác của anh, những người bạn đồng hương, những người học cùng trường cùng lớp, có cả những người không hề quen biết cũng xúm nhau vào chung lo. Hầu như ai cũng hiểu rằng ngày “ra đi” của anh không xa. Nhưng may mắn, anh vẫn còn qua được vài mùa xuân. Những lần sau này tôi đến thăm anh, anh nằm đó nhưng tỉnh táo, không nói chuyện được song hỏi nhiều điều, anh vẫn nhớ, vẫn hiểu. Khi anh gật đầu, thỉnh thoảng có được một nụ cười, đôi mắt ánh lên một niềm vui. Nhất là khi tôi cố gợi lại một vài câu chuyện vớ vẩn từ hồi xa xưa chúng tôi gặp nhau ở ngoài đường hoặc ở toà soạn một vài tờ báo.

Ðể cho anh được sống lại với những kỷ niệm cũ, tôi kể lại một buổi sáng sớm vào khoảng năm 1971-72, sau một đêm đánh chắn với vợ chồng ông chủ báo Kịch Ảnh đường Cống Quỳnh, tôi lái xe về nhà. Qua đường Lê Lai, tôi thấy Lê Xuyên cúi đầu đi trên hè phố. Tôi đậu xe sát lại, Lê Xuyên vẫn chưa thèm nhận ra là xe của ai. Tôi bóp còi, lúc đó anh mới ngước lên nhìn và toét miệng cười. Ít khi ông Lê Xuyên cười lắm. Tôi đẩy cửa xe, thò đầu ra hỏi:

– Ăn sáng chưa”

– Chưa… gì hết trọi, có tiền đâu mà ăn.

– Lên đây, tôi đưa ông đi ăn sáng.

Leo lên xe, anh hỏi thẳng:

– Ðêm qua được hay thua

– Ðược.

– Nhà không còn một xu, tui để tiền trong túi cũng hết luôn.

Tôi cười và hiểu cái sự “hết tiền trong túi” của anh dù mới lãnh lương. Móc trong cóp xe, tôi chia cho anh một nửa số tiền được bạc đêm hôm qua và dặn dò rất kỹ:

– Mang về toà soạn cất vào ngăn kéo để tiêu dần đấy.

– Ừ, tốt. Ông ăn sáng chưa, cho tôi đi với. Lâu rồi không được ăn đồ Tây.

Tôi cười:

– Ra Givral hay Brodard, ông thích chỗ nào.

– Ðâu cũng được.

Chúng tôi ra Givral, sáng sớm tinh mơ chỉ có hai bàn có khách. Tôi gọi bánh mì jambon là món “đặc sản” ở đây, còn Lê Xuyên gọi omelette jambon ngồi nhai bỏm bẻm lấy làm thú vị lắm.

Hơn mười năm sau, khi tôi ở trại cải tạo ra, Thanh Thương Hoàng dẫn tôi đến thăm Lê Xuyên. Anh ngồi bán thuốc lá lẻ ở một góc phố. Chiếc quầy thuốc bé tẹo nhưng cũng đủ che hết tấm thân gầy gò của anh. Chúng tôi nhìn nhau và cùng cảm thông rất sâu sắc cái thân phận mình lúc này. Anh chớp mau mắt nói như để an ủi hơn mười hai năm tù của tôi:

– Trông ông vẫn cứ phong độ như ngày nào.

Tôi thẳng thừng thương bạn:

– Còn ông, trông chán bỏ mẹ. Ð… khóc được chứ…

Hai bàn tay bạn tôi run lên, lật bật đút chiếc chìa khoá vào ngăn tủ kính để mấy gói ba số năm bán lẻ (hồi đó ba số năm quý lắm):

– Hút thuốc lá không?

– Không, tớ hút thuốc lào quen rồi, về đây hút thứ nặng hơn mới đủ đô.

nha-van-le-xuyen1
Các tác phẩm của nhà văn Lê Xuyên. nguồn: WordPress.com

Thanh Thương Hoàng rủ sang bên con hẻm phía trước ăn sáng. Ðó là con hẻm lối đi vào một ngôi chùa hay ngôi đình gì đó. Không có hủ tiếu, Lê Xuyên phải chạy đi gọi ở một nơi nào quen bán chịu cho anh ở gần đó. Lê Xuyên trở lại với con người thật của anh. Vẫn hiền lành, cười tủm và chân quê. Phải nhìn thấy cái cười tủm của anh mới biết tại sao anh viết về những cuộc tình của những đôi trai gái đồng ruộng miền Nam hay đến như thế, láu cá đến như thế. Tôi nhủ thầm: Thằng cha này tẩm ngẩm tầm ngầm mà ghê lắm đấy. Nó không nói mà chỉ viết, nên nó viết được nhiều hơn mình. Chỉ có nó mới viết được những “dòng chảy ngầm” của trai gái thôn quê miền Nam thật đến thế và hấp dẫn đến thế. Lê Xuyên khác với một số những cây bút hoàn toàn Nam Bộ như Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam ở chính cái “thật” của anh.  Tiểu thuyết của anh không màu mè, không lý luận, không khoác bộ áo nghiên cứu sưu tầm về phong tục tập quán dưới hình thức này hoặc dáng vẻ khác. Từng động tác, từng thái độ, từng lối ứng xử trong nhân vật của anh cứ như những con người thật lồ lộ đang ở trước mặt chúng ta vậy. Trước mặt tôi, ông già Lê Xuyên vẫn còn cái hóm hỉnh riêng, nhưng bây giờ thì như anh nói: “Ðếch viết nữa”. Tôi hỏi không viết được hay không thích? Câu trả lời của anh gọn lỏn: “Bỏ đi Tám”. Tôi không thể hiểu nổi ba chữ “bỏ đi Tám” mà anh dùng. Có một nỗi chua chát nào đó trong cái tâm sự thật của anh. Ðến cái thẻ chứng minh nhân dân anh cũng không muốn làm nên anh ở nhà anh mà anh không có tên trong sổ hộ khẩu, cứ như ở lậu, công dân lậu. Thái độ đó có đồng nghĩa với sự “Bỏ đi Tám” của anh không, chỉ có anh mới hiểu. Và bây giờ anh mang theo anh về thế giới bên kia.

Cách đây vài năm, tôi có viết một bài về Lê Xuyên và may mắn nhận được sự giúp đỡ thiết thực của khá nhiều bạn bè. Trong đó có một vài tờ báo muốn đăng lại những truyện dài của anh, tôi hỏi, anh chỉ lắc đầu: “Chẳng còn cuốn nào” và cả chị Lê Xuyên cũng không kiếm được cuốn nào cả.

Ba năm sau cùng, anh không còn sức để ngồi bán thuốc lá lẻ nữa. Thỉnh thoảng tôi và Nguyễn Thụy Long đến thăm anh, cố dìu anh ra quán cà phê cuối ngõ ngồi lai rai tâm sự vặt. Hai năm sau này thì dù chúng tôi có cố lôi anh đi cũng không nổi nữa. Anh như cái bóng trong góc tối của gian phòng chật chội vây quanh bởi hàng trăm thứ lỉnh kỉnh nào bàn ghế, chai lọ, giường tủ. Chỉ có cô con gái út săn sóc cho anh, bà vợ và các con lớn của anh vất vả với công việc hàng ngày. Cái chết đến từ từ theo từng ngày giờ buồn tênh, dường như anh chán cả cái sống và cái chết, không thèm chú ý đến nó nữa.

Khi tôi đến với anh lần cuối là lúc các con anh đang thay quần áo cho anh trước khi nhập quan. Cái thân hình gầy gò trần trụi của anh phơi ra, tất cả chỉ còn có thế. Tôi chuyển ngay cho chị số tiền mà tôi mới gửi e-mail tối hôm qua thông tin về sự ra đi của anh, nhanh chóng được đáp ứng. Các bạn ở Virginia, San Jose, Santa Ana yêu cầu tôi chuyển ngay khoảng 1,000 USD đến lo tang lễ cho anh. Một người bạn đưa ngay đến 2 triệu và mang đến vòng hoa đầu tiên của bạn bè Sài Gòn. Hôm sau chị Lê Xuyên với bà con đến phúng:

– Có các bác bạn văn của nhà tôi giúp nên tôi mạnh tay làm đủ thứ việc cho nhà tôi. Mạnh vì gạo bạo vì tiền, có phải không các bác. Không có bạn bè, tôi chẳng còn biết xoay sở ra sao.

Tôi nói với chị:

– Chắc sẽ còn nữa, có một số anh em chưa gửi về kịp, xin chị an tâm đi tiếp con đường ai cũng phải đi.

Buổi chiều ngày 5-3, đúng hai giờ lễ động quan bắt đầu. Giữa trời nắng chang chang, chúng tôi đưa người quá cố đến nghĩa trang Bình Hưng Hoà. Có rất nhiều người bên hè phố lặng lẽ tiễn đưa anh. Ðám tang nhà văn Lê Xuyên không ồn ào như đám tang của những nhà nghệ sĩ mà ở đây người ta cho rằng đó là những “nhà nghệ sĩ lớn”, nhưng những con người thầm lặng ấy đưa tiễn anh với tất cả tấm lòng mình. Họ không nói gì, không có kèn saxo như trong đám tang Trịnh Công Sơn, không có những giọt nước mắt dài ngắn thở than của những danh ca nghệ sĩ, không có những bài “điếu văn” lâm ly bi đát. Nhưng đám tang Lê Xuyên đầy ắp những tình yêu thương từ xa xưa đọng lại, từ bốn phương, tám hướng lãng đãng bay về phủ kín khung trời Sài Gòn. (VĂN QUANG, Nguồn: Việt báo online)

Lê Xuyên không còn nữa, nhưng Chú Tư Cầu, Rặng Trâm Bầu, Nguyệt Ðồng Xoài thì vẫn còn đó mãi mãi trong lòng người dân Miền Nam. Xin nhà văn của chúng ta hãy ngủ yên.

NGUYỄN & BẠN HỮU