Menu Close

Nỗi sợ (kỳ 2)

Tôi không kịp trải nghiệm nó dưới thời Stalin. Tuổi còn non trẻ và sự ngu dốt đã may mắn cứu tôi. Nhưng tôi nhìn thấy Nỗi Sợ này ở những người khác, và họ đã phả Nỗi Sợ đó vào lồng ngực tôi chẳng khác gì sự mẫn cảm với bệnh lao. Tất cả thế hệ chúng tôi, cũng vậy, đều mẫn cảm với Nỗi Sợ. “Thế hệ 1960” là lớp người mà trong cấu trúc gen đã được cài đặt Nỗi Sợ, nhưng cũng là thế hệ bắt đầu biết cách chế ngự và chiến thắng nó. Chỉ đến năm 1956 tôi mới trực tiếp cảm nhận được Nỗi Sợ này trên da thịt mình.

Không có gì hèn hạ hơn nỗi sợ trước chính nỗi sợ của mình.

Không có gì trên đời tôi căm thù bằng căm thù nỗi sợ.

thơ Evtushenko

Kỳ II

Buổi làm việc

Tại lối vào ở góc phố Lubyansk của trụ sở KGB, một khuôn mặt tươi cười mến khách chào đón tôi, nhưng lần này không phải khuôn mặt đàn ông mà là phụ nữ. Một kiểu người phụ nữ Xô-Viết rất đỗi bình thường – chiếc áo váy khá sặc sỡ, đi đôi dép xăng-đan màu trắng, một đôi hoa tai màu đỏ quá to để nghĩ rằng đây là viên hồng ngọc. Còn đôi gò má thì, cha mẹ ơi, vừa cao vừa nặng nề như của một võ sĩ quyền anh vậy. Biểu hiện của đôi mắt thì hoàn toàn khó xác định. Chị ta huýt sáo nhẹ và lập tức âm thanh này mê hoặc ngay được tôi. Nó không ăn khớp chút nào với cái giọng mệnh lệnh và khá là giả tạo. Người phụ nữ hành xử với cung cách cứ như thể, vào những bước đi đầu tiên trên con đường công danh đã từng làm trưởng phòng cải tạo thanh thiếu niên, nơi mà người ta áp dụng cả sự mơn trớn lẫn bàn tay sắt của chính quyền. Chị ta dẫn tôi đi dọc các hành lang dài hun hút, rồi mở toang cánh cửa căn phòng làm việc nhỏ bé của mình. Phía trên bàn đặt hai bình thủy tinh nhỏ, một cắm hoa tử-đinh-hương màu trắng và hồng, một đựng đủ các loại kẹo — nào là kẹo Misha hoặc Misha phương Bắc, nào là kẹo nhân anh-đào, phúc-bồn-tử… Chị ta huyên thuyên không ngừng:

“Chúng tôi rất hân hạnh được tiếp anh ở đây, Zenhia thân mến. Cứ nghĩ mà xem, ở đây anh có nhiều bạn bè và người hâm mộ hơn bên Hội Nhà Văn ấy chứ. Ở đấy người ta ghen ăn tức ở với anh. Làm sao mà không ghen tị được cơ chứ? Trẻ tuổi như vậy mà đã nổi danh như sóng cồn. Ăn kẹo đi, đừng ngại ngùng gì! Thú thật với anh, tôi rất ưa thích ngọt ngào. Cách đây ít lâu chứ đâu, mọi người ở đây bái phục và hâm mộ thơ của anh ‘Ta vào trận vì chính quyền Xô-Viết’. Ôi, những dòng thơ mới đáng nhớ làm sao! ‘Bạn vội vã chết vì Grenada? Còn bạn, vì Grenada hãy sống’!” 

noi-so2
Thắm Nguyễn

Những lời nói huyên thuyên của chị ta như đung đưa, ru ngủ và làm mềm lòng. Chị ta nhanh chóng trở nên thân quen, như một người họ hàng ruột thịt. Chủ đích là rất chính xác: đùa giỡn trên nỗi sợ hãi khi nghe đến từ “Lubyansk” – nhưng hóa ra lại là một không khí ấm áp gia đình. Hình như mọi người ở đây không phải đao phủ, mà toàn là ông thiện và người hâm mộ của bạn cả. Tôi tin chắc rằng nhiều người được gọi tới đây thoạt tiên cũng bị nỗi sợ hãi bản năng túm chặt, nhưng sau đó lại được mua chuộc bởi sự vuốt ve bất ngờ. Thật may mắn, tôi đã được chuẩn bị sẵn để đối phó với xảo thuật của sự mơn trớn và có thể bình thản giả ngây giả ngô, trong khi vẫn thủ cho mình một lợi thế kín đáo trước các nước đi của đối phương.

Trong chiếc bình đựng kẹo, phía trên cùng có một chiếc kẹo đặc biệt, có lẽ là chiếc cuối cùng lấy ra từ một hộp kẹo khác. Nó là loại sô-cô-la hình tròn có bọc một lớp giấy, tất nhiên được lấy từ hộp kẹo mà vỏ hộp có in hình mấy chú chim đang mổ quả anh-đào mọng nước trên cành cây. Nhân của loại kẹo này có rượu vang. Chính một hộp kẹo như vậy được ông nội tôi cầm về nhà lần cuối cùng trước khi bị bắt. Có thể người ta đã tra khảo ông tôi trong chính căn phòng này, nơi mà người ta đang chiêu đãi tôi kẹo?

Rõ ràng quý bà này đinh ninh rằng đã thành công trong việc thuyết phục tôi đồng ý với đủ mọi điều kiện, miễn là không bị ngồi tù. Chị ta đưa tôi sang một phòng khác rộng rãi hơn, và đằng sau chiếc bàn làm việc là một người đàn ông có chức vụ cao hơn. Trước mặt ông này chị đứng nghiêm, ưỡn thẳng người, để lộ ra rằng đằng sau bộ váy áo diêm dúa là một sĩ quan chỉn chu. Sau đó, chị lui ra ngoài. Người đàn ông này không cần phải vòng vo bằng những lời khen ngợi xã giao. Ông ta xuyên thẳng vào người tôi bằng hai mũi khoan, hay có thể gọi là hai con mắt màu xanh có ánh thép khiến tôi cảm thấy mất tự chủ.

“Hiện nay, tại Lubyansk, và trên cả đất nước chúng ta, đang có những biến động lớn…” Ông ta nói và ngừng lại từng đoạn, nhưng không hề giảm uy lực của ánh mắt. “Những người mới đến thay chân. Chúng ta cần phải giúp Ðảng đấu tranh với những tàn dư của tệ sùng bái cá nhân, phục hồi công lý cho những người bị kết án oan sai. Theo tôi, điều này gần gũi với anh hơn, có đúng vậy không? Nhưng, trong số những người cung cấp thông tin cho chúng tôi, có quá nhiều cán bộ già. Họ quen thông báo những thông tin mà người ta mong muốn được nghe. Giờ đây, họ mất phương hướng, bối rối. Họ không hiểu điều người ta mong muốn. Ðiều duy nhất mà chúng tôi cần bây giờ – chính là sự thật. Bởi vì, chính trên cơ sở những thông tin của chúng tôi đưa lên, những quyết định trọng đại “quốc gia đại sự” được thông qua. Chúng tôi không cần những kẻ mách lẻo. Chính chúng tôi cũng chả coi họ ra gì. Cái chúng tôi cần, theo như Pushkin đã diễn tả ‘Trí tuệ của những quan sát lạnh lùng và trái tim của những nhận định cháy bỏng’. Chúng tôi cần những con người trẻ trung, dũng cảm và chân thành, những người có thể chia sẻ với chúng tôi những nhận định nóng hổi như: Nhân dân đang nghĩ gì? Ðó cũng là cách giúp đỡ nhân dân. Chẳng lẽ, ở đây có cái gì đó đáng xấu hổ sao? Anh thấy thế nào?”

“Tôi không nghĩ…” tôi ậm à ậm ừ, nhớ tới lời khuyên của ông anh, đầu gật gù như viên quan Tàu.

“Cụ thể anh không nghĩ cái gì?” Ông ta thận trọng hỏi.

“Ðại loại…việc này…nhục nhã…” tôi làm bộ như một đứa trẻ mồ côi bất hạnh và sử dụng kế hoãn binh.

“Sao lại có chuyện nhục nhã ở đây khi mà cậu thực thi nghĩa vụ công dân nhỉ?” Ông ta chuyển cách xưng hô có vẻ thân mật hơn, cố gắng che giấu vẻ thất vọng bởi sự việc lại diễn biến ra vậy. Theo tôi, ông ta còn rất lấy làm buồn vì việc áp dụng một chiến thuật tế nhị, tinh vi với chàng thanh niên mặt còn búng ra sữa bỗng trở nên vô ích. Ông tự lẩm bẩm:“Thật thú vị khi làm việc với những người am hiểu.”

Sau đó ông im lặng một lát, rồi nói toẹt ra: “Chúng tôi có thể giúp cậu.”

“Giúp gì ạ?” Tôi hỏi lại, vẻ hào hứng hẳn lên.

“À, thí dụ như… các chuyến đi nước ngoài chẳng hạn. Cậu, hình như chưa đi đâu cả phải không? Nhân tiện tôi cũng nói luôn, không cho cậu đi nước ngoài, chẳng phải ai khác chính là các ông bạn văn chương của cậu. Rồi, chính họ lại đổ tội lên đầu chúng tôi. Chính thơ của cậu, có thể nói, cũng gào lên về tình cảnh gò bó này: ‘Ðường biên giới ngăn cản tôi/thật ngượng ngùng khi chưa tới Istanbul, Tokyo, New York.’ Tôi trích dẫn có đúng không?”

“Chưa biết Buenos Aires, New York…” tôi chỉnh lại.

“Chúng ta sẽ tính đến cả Buenos Aires,” ông ta thoáng chút cười khẩy. Nụ cười bình thường, đối với ông khó khăn hơn nhiều cái cười ruồi đầy ngụ ý. “Nhưng cậu, tôi hy vọng, cũng chả phản đối nếu như được đặt chân tới Tokyo và Istanbul chứ?”

“Thế là sao ạ?” Tôi hỏi với vẻ tò mò thực sự và cũng làm như vẻ của người sẵn sàng chấp nhận tất cả cốt chỉ được một lần bứt ra khỏi biên giới.

“Ðầu tiên, chúng tôi có thể giúp cậu làm một chân phục vụ bàn trên tàu viễn dương nào đó,” với vẻ rầu rầu, ông ta đề nghị. Rõ ràng, ông ta thích cắn những hạt dẻ cứng cáp hơn. Răng của ông ta không bóng loáng, nhưng rất to và chắc. Tôi thoáng nghĩ, tại sao một số sinh viên trường viết văn năm ngoái cũng đã làm việc trên các con tàu viễn dương sang Ấn Ðộ? Ngay lập tức, họ được đưa vào danh sách những người làm chỉ điểm. “Nhưng tất nhiên, việc cung cấp thông tin cần được bắt đầu ngay khi còn trên cạn,” ông ta tiếp lời với một nụ cười ngụ ý. “Cũng như trong nhà xuất bản thôi. Các bạn có trình ra bản thảo, thì chúng tôi mới đưa tạm ứng trước.”

Trong ánh mắt hơi có vẻ u sầu của người tiếp chuyện, dẫu sao cũng có ánh gì đó tò mò pha chút uể oải. Tôi phản ứng như thế nào trong cái vụ thương thuyết mặc cả này? Tôi che giấu sự thất vọng kín đáo của mình bằng những lời hết sức khiêm nhường, sau khi mô phỏng lại vẻ thiểu não trên khuôn mặt người đối thoại. Tôi dường như bắt đầu cò kè một cách tinh vi, bóng gió xa gần, bằng sự biểu cảm của các cơ trên mặt, như chờ đợi thêm những thìa ân huệ vì tinh thần sẵn sàng thông báo cho tổ quốc những nguy hiểm đang rình rập.

Người đối thoại phát hiện ra với vẻ thỏa mãn mang tính nghiệp vụ rằng hóa ra tôi không dễ bị “mua đứt” như ông ấy vẫn lầm tưởng lúc đầu. Hình như ông ta lại quan tâm nhiều tới tôi, căn cứ trên mọi phương diện, như một chú mèo thích đùa giỡn với con chuột đang muốn vùng vẫy ra khỏi nanh vuốt của mình. Bị rơi vào bẫy của những tiểu xảo diễn xuất của tôi, ông ta ngờ rằng tôi có thể chuồn khỏi tay nên đặt giá luôn:

“Cậu có một vần thơ rất khoáng đạt ‘Anh mang em đến chốn nào đây?’ Ðúng vậy, các bạn trẻ giờ đây chẳng có chỗ mà yêu nhau. Nhiều người trong chúng ta chỉ đến khi già mới nhận được căn chung cư riêng biệt, mà cũng không phải lúc nào cũng được như vậy…Cậu là một nhà thơ, mà cứ xét theo những vần thơ thì cậu cũng vào loại đa tình…Thỉnh thoảng, chúng tôi có thể sắp xếp cho cậu một phòng tại khách sạn ‘Trung tâm’, ngay cạnh quán ăn Diễn Viên. Ở đây, cậu hoàn toàn tự do thoải mái: nào thì sáng tác, nào thì giải trí. Tuổi trẻ chẳng là gì nếu như không có gì để mà nhớ. Chúng ta đấu tranh chống lại sự suy đồi, nhưng chính suy đồi và đạo đức giả – đó là hai mặt…”

“Của một tấm huy chương.”  Tôi tiếp lời ngay với vẻ tin cậy như một người bạn cùng chung chí hướng. Tôi diễn tả những tia hân hoan trong mắt của mình cứ như thể đã đánh hơi được mùi vị của những cuộc thác loạn trong khách sạn này nơi chính ủy ban An Ninh Quốc Gia (KGB) trao tận tay cho tôi chiếc chìa khóa phòng và giải quyết một cách vĩnh viễn vấn đề cam go của tôi là “tôi sẽ đưa các nàng ấy đến chốn nào đây?”

“Vậy thế cần phải làm gì ạ?” Tôi hỏi thẳng huỵch toẹt, chẳng cần phải che giấu, như một kẻ chỉ điểm đã hoàn toàn bị mua đứt bán đoạn. Người đối thoại vừa mới giờ đã vô tình làm lộ mặt những kẻ chỉ điểm trong trường Viết văn Gorky, lại tiếp tục thiếu thận trọng xòe ra những con bài với vẻ đầy tự tin rằng vụ việc đã được giải quyết ổn thỏa.

“Trước tiên, thông tin thường xuyên về tâm trạng của các nhà văn, cả các nhà bác học và sinh viên mà cậu có mối quan hệ thân thiết. Có một việc rất cụ thể đây. Năm tới, tại Moskow sẽ có Liên hoan Sinh viên Thế giới. Ðã đến lúc, tất nhiên, phải tháo bỏ ‘bức màn sắt’…song, kể ra cũng còn khá sớm để ném nó vào đống sắt vụn. Rất nhiều người nước ngoài sẽ tới Liên Xô, những người mà ba chục năm nay chưa hề đặt chân tới đây. Người thì đem đến tấm lòng tiến bộ — ông ta lại cười khẩy – kẻ thì mang đến bệnh giang mai và những ấn phẩm văn chương độc hại. Chúng ta không phản đối bầu không khí ấm dần lên, nhưng cũng không chấp nhận được sự nhầy nhụa của thời tiết khi tuyết tan. Càng tự do bao nhiêu lại càng cần kiểm soát tự do bấy nhiêu. Không thể để lịch sử tự vận hành được. Ai sẽ là người quản lý cái đám khách da đen, da vàng, da nâu, da đỏ này? Trong số họ sẽ có các nhà văn trẻ đến từ các nước tư bản. Hãy để mắt tới họ, hãy đi cùng họ đến các quán restaurant, tán phét cùng họ. Chúng tôi quan tâm tới việc họ nghĩ gì? Như nhà thơ Maiakovsky nói ‘Chủ nghĩa cộng sản là mùa Xuân của nhân loài, và những người trẻ phải xây dựng nó’. Tiện đây, chúng tôi sẽ cấp thẻ đại diện cho cậu, cả rượu sâm banh nữa. Hình như, cậu cũng rất ưa chuộng loại đồ uống này thì phải?”

“Làm sao anh biết được?” Tôi làm ra cái vẻ e thẹn, ngờ nghệch.

“Chúng tôi cũng phải biết đôi chút chứ,” ông ta gượng đùa và cho rằng mọi chuyện đã đâu vào đấy cả rồi nên cũng chả cần tôn trọng người đối thoại nữa. Ông hấp tấp khẩn trương kết thúc công việc và nhìn chiếc đồng hồ đeo tay đầy ngụ ý.“Thôi, vậy nhé…để tiện cho cả đôi bên, cậu nên có một cái tên mới để liên lạc, người ta sẽ đến tìm gặp cậu.”

Ông ta đứng dậy ra chiều bảo buổi nói chuyện đã kết thúc. Hai chiếc khoan màu xanh xám được gọi là mắt của ông chùng xuống. Ông đinh ninh rằng đã khoan thấu người tôi. Chìa tay ra bắt, ông cũng không thèm. Tôi đứng dậy, và cũng không đưa tay ra. Song tôi hiểu rằng trò chơi mèo vờn chuột cần phải chấm dứt, đã đến lúc hất đổ bàn cờ vua.  “Xin lỗi, tôi chỉ có một câu hỏi thôi,” tôi thốt ra theo quán tính vẫn còn luống cuống.

“Sao nào?” Cảm thấy có điều gì đó không ổn, cánh mũi gồ sụn của ông ta giật nảy lên.

“Tên mới mà anh muốn cho tôi, đấy là cái gì? Tên lóng?”

“Sao lại thô thiển vậy?” Ông nhún vai, cố gắng xua đi những ái ngại bằng một nụ cười ấm áp, thân thiện, song không thành công. Nó không chọc thủng được cái vẻ mặt lạnh băng bất ngờ. “Nếu cậu thích, có thể gọi là mật mã cho chuyên nghiệp, hay bí danh gì đó.”

“Không đúng, tên lóng mới chính xác,” tôi nói. “Không thể gọi khác đi được! Tôi là con người rất dễ xúc động, có thể quên phéng đi mất, chẳng nhớ đâu là tên lóng để gọi điện cho các ông, đâu là tên thật để ký dưới bài thơ. Nhưng hơn hết, tôi không phải là loại người biết giữ bí mật. Tôi là loại người mà vẫn thấy trên các khẩu hiệu: ‘Kẻ ba hoa là mồi ngon cho gián điệp’.” 

“Chúng ta là các chiến sĩ trinh sát chứ không phải gián điệp,” người đối thoại của tôi cố gắng chặn đứng sự phát triển đột ngột của sự việc. Hai mũi khoan xanh xám không hướng vào tôi mà hướng xuống nền nhà.

“Xin lỗi anh,” tôi chữa lại. “Tôi rất lấy làm tự hào về độ tin cậy của anh rằng tôi sẽ không thông báo cho toàn thế giới biết về sứ mệnh bí mật của mình. Song, tôi tự biết thân tôi, tính khiêm tốn không phải là một trong những điểm yếu không thể sửa được của mình.”

“Chúng tôi không hề nghi ngờ gì về đức tính khiêm tốn của cậu…” ông ta cáu bẳn lên nhưng vẫn cố gắng đùa cợt.

“Tất nhiên tôi cảm ơn lòng tin cậy của các anh, nhưng tôi buộc phải từ chối vì sợ không đáp ứng được…” tôi ấp úng chọn từ, “những yêu cầu quá cao của các anh.” Tôi chua thêm, “Các anh đã lăng nhục tôi. Ôi, sao mà nhục nhã thế…”

“Ðâu, làm gì có chuyện đó cơ chứ?”

“Chẳng lẽ cứu tổ quốc khỏi tai họa lại cần phải trả công bằng các chuyến đi viễn dương, bằng buồng trong khách sạn, bằng tiền mua sâm banh sao? Chẳng lẽ không còn ai có thể sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc một cách vô tư?” Tôi hỏi lại một cách nghiêm túc. Ông ta hiểu rằng tôi, mặc dù mới vào cuộc chơi, nhưng dẫu sao cũng đã thắng. Khi ông ta ngước “đôi mũi khoan màu xanh xám” lên khỏi nền nhà thì trong đó chẳng còn gì ngoài một nỗi thất vọng âm thầm pha chút gì đó kính nể. Ông ta hiểu rằng mọi cố gắng thuyết phục nữa cũng vô ích.

“Thôi, cậu ký vào tờ cam đoan không được để lộ cuộc nói chuyện của chúng ta,” ông ta nói cộc lốc. Tôi ký, nhưng cũng không biết rằng có thể không cần ký. Khi tôi ra về ông ta bất ngờ chìa tay ra cho tôi bắt. Có lẽ ông giận mình hơn là giận tôi. Một nụ cười gượng gạo định hình trên môi ông.

HẾT

VTH dịch