Menu Close

Đi tìm thời gian… chưa mất

Trong không khí tưởng niệm ngày 30 tháng Tư, lòng chợt nghĩ tới Sài Gòn. Sài Gòn. Ôi nơi từ đó tôi đi / phượng đỏ một trời yêu dấu cũ / là lúc chia xa… Nhất là khi đọc bài Sài Gòn Của Tôi của nhà khảo cổ / nhà văn Nguyễn Thị Hậu lòng càng nhớ Sài Gòn. Nhất là Sài Gòn ngày xưa. Vậy xin trở lại với một vài hình ảnh cũ…

Còn nhớ, cách đây khá lâu, khi viết về cà phê Sài Gòn đăng trên báo của Mặc Bích ở Houston, Nguyệt Hạ từng ghi nhận: Ngồi nhìn ra cửa kính, đối mặt với công viên có hai hàng cây dầu rái cao vút, hay chếch sang nhà hát thành phố, tới khách sạn Caravelle, Continental… thì kiểu ngồi nhàn hạ của khách hôm nay cũng gợi nhớ một thời dĩ vãng, thời những nhà văn nhà thơ nổi tiếng từng ngồi như vậy, uống bia (hay cà phê), bàn chuyện chính trị, thời sự, văn học. Huy Tưởng -nhà thơ cũ- bảo “Cái ông Graham Greene viết cuốn Người Mỹ Trầm Lặng từng ngồi đây, các bạn anh kẻ sống người chết từng ngồi đây. Những Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Trịnh Công Sơn… nhớ không xuể!”

Thế đấy. Vậy mà nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng của chúng ta (cũng đã ra đi), cách đây dăm bảy năm, sau khi đi thăm Việt Nam về lại nói rằng Sài Gòn không còn như ngày xưa nữa rồi, ông không tìm lại được những hình bóng cũ của thời trẻ tuổi cách đây mấy chục năm. Hỡi ôi!

Nhưng dẫu sao, từ Huy Tưởng đến Nguyễn Xuân Hoàng vẫn có cái gì đó có thể hình dung và chia sẻ được. Ấy là Sài Gòn vẫn còn đó đôi nét cũ và chút hồn xưa, có điều là những bạn bè thân thiết một thời có kẻ không về nữa, mà đã nằm đọc sao trời đâu đó.

Để có cái nhìn xa và sâu hơn, người viết xin trở lại với một nhà báo ngoại quốc -bà Catherine Texier – để thấy rằng một số dấu tích của thời xa xưa vẫn còn trên thành phố.

Bà viết trên tờ New York Times cách đây chừng mươi mười lăm năm: “Việt Nam vẫn còn dấu vết thời thuộc địa.” Đọc lời này, hẳn chúng ta không lấy làm lạ, vì Catherine Texier là một người Pháp, bà nhìn và chú ý nhiều nhất những vết tích còn lưu lại, những ấn chứng nói lên rằng một thời người Pháp đã có mặt ở đây, đã gây thương tích cho xứ sở này cũng như đã dựng lên những công trình văn hóa trong cuộc sống của người bản xứ.

Đúng là mỗi người nhìn theo góc đứng và tâm cảm của mình. Một cựu chiến binh Hoa Kỳ chẳng hạn, khi nhìn về Việt Nam, chỉ thấy những khu rừng già và những cánh trực thăng lao vào vùng của đạn và khói, hoặc chỉ nhớ những quán bar, những ly rượu uống bên những Phượng những Liên vào lúc hoàng hôn hoặc trong đêm khuya khoắt. Có thể đó là một mối tình như hơi men thoáng qua hay thiên bi sử để lại một vết cháy trong tâm hồn. Đã có những cuốn phim kể lể những chuyện tình như thế. Người Mỹ Trầm Lặng hay Ba Mùa đã phần nào vẽ lại con đường tình vừa nói. Và khi nói Việt Nam với một phụ nữ Pháp, thì bà ta có thể có những tưởng tượng về cuốn phim Người Tình (L’Amant) và Đông Dương (Indochine) và hình dung tới những quán cà phê ngày xưa trên đường Catinat ở giữa thành phố Sàigòn.

Chúng ta có thể đồng cảm với người này hoặc người kia. Như thế, vì chúng ta  thấy rất nhiều thứ khi nói về Việt Nam. Nhưng, để câu chuyện bên tách cà phê này đừng đi quá xa, bạn đọc và người viết những dòng này thử xem bà Catherine Texier nhìn thấy những gì còn mang cái hình và cái hồn của một thời cách đây non thế kỷ.

Và bà ghi lại như sau về thành phố Sài Gòn:

Cách đây một trăm năm… Quả thật, người Pháp đã đến đây và đặt sự cai trị của mình lên đất nước Việt Nam từ giữa thập niên 1800 cho tới trận Điện Biên Phủ năm 1954. Và cũng đúng như Catherine nghĩ là những hình ảnh quá khứ của thời thuộc địa phần nào đã bị tàn phá bởi cuộc chiến tranh Mỹ, đặc biệt ở miền Nam, và người Pháp sau đó đã mất chỗ đứng của mình, và tiếng Pháp chỉ còn là một ngôn ngữ thứ nhì sau tiếng Anh.

Và quả thật rằng, như Catherine nghĩ, khi lần đầu bạn đặt chân lên thành phố Sài Gòn bây giờ, khó mà hình dung những tay thực dân Pháp lừ đừ trên những chiếc xe ngựa trong cảnh hỗn độn náo nhiệt của những chiếc xe gắn máy, xe đạp và hàng hóa rẻ tiền tuôn ra từ những cửa tiệm xây bằng những khối bê tông.

Sài Gòn không còn đường Catinat nữa. Đại lộ nổi tiếng nhất của Đông Dương thời trước hiện giờ được gọi bằng cái tên Đồng Khởi.

Đây, ta hãy cùng Catherine đi dạo dọc theo con đường Catinat ngày xưa, và nghe bà ghi nhận:

“Trong số những cửa tiệm rực rỡ và những khách sạn xa hoa 100 năm trước nằm dọc theo con đường có khách sạn Laval, cà phê Parisien, các cửa tiệm bán rượu hồi và rượu mạnh, đồ lót và quần áo từ Paris chỉ còn có khách sạn Continental, được phục hồi trở lại vẻ tráng lệ nguyên thủy của nó, nằm xéo với Nhà Hát Thành Phố. Thay vì những phụ nữ sang trọng trong những bộ đồ vải lanh mầu nhạt thả bộ dọc con đường, tay xoay tròn chiếc dù, thì hàng trăm những chiếc xe gắn máy chạy đua dọc theo con đường với tốc độ nguy hiểm, 10 chiếc hàng ngang, không có đèn đỏ để họ dừng lại.”

Bà ghi nhận thêm những gì nhìn thấy trên phố xá:

“Tối đầu tiên tôi ở thành phố này, đi bộ dọc con đường Catinat mà bây giờ là Đồng Khởi, từ khách sạn Continental ra tới bờ sông Sài Gòn, từ khách sạn Majestic -một khách sạn trông như chiếc bánh cưới màu trắng sáng lòa, xây từ thập niên 20… tôi đã cố băng qua đường dọc theo Bến Bạch Đằng. Những dòng xe hai bánh dồn dập không ngớt đến độ tôi không dám bước khỏi lề đường, cho tới khi một người đàn ông Việt Nam tử tế cầm tay tôi và dẫn tôi đi qua.”

Ngắm cảnh ngắm người, Catherine đi tới một xác quyết, rằng không cần phải đào bới nhiều mới tìm được quá khứ. Khách sạn Continental -vẫn ở đó như hồi đầu thế kỷ 20- có hình dáng một chiếc thuyền viễn dương bằng gỗ đậm và thau sáng chói, màu đỏ tía của những bức màn nhung phai đi một chút dưới ánh nắng mặt trời.

Bên trong, ngay cả khi có máy lạnh, các phòng cảm thấy một chút ngột ngạt, đồ đạc bằng gỗ sậm của chúng được chạm trổ huy hiệu ba cánh hoa của vua chúa Pháp. Nhưng sân bên trong, nơi bữa điểm tâm và bữa tối được dọn ra trên những bộ bàn ghế bằng sắt thời xa xưa, là một ốc đảo nhiệt đới xông mùi hoa sứ và hoa nhài đến ngào ngạt.

Bà Catherine Texier còn cho biết thêm  “(Khách sạn Continental) Là một trong số một nhúm các khách sạn (cùng với khách sạn Majestic và Rex – tất cả đều cách nhau một khoảng đi bộ) còn sót lại từ thời thuộc địa, nó đứng trên Công Trường Lam Sơn, ở góc đường Catinat ngày trước.”

Bây giờ chúng ta hãy nghe Catherine Texier nói về một nơi rất quen thuộc với người dân Sài Gòn thời trước – khu trung tâm với những con phố Catinat, Lê Thánh Tôn, Gia Long, Pasteur: Đầu đường là Bưu Điện trung ương, một tác phẩm vĩ đại được thiết kế bởi Gustave Eiffel. Ở chung quanh khu vực, những biệt thự lớn màu vàng thời thuộc địa vươn lên trong cảnh hùng vĩ đã suy sụp như cảnh tượng đổ nát của một quá khứ đã qua từ lâu. Đáng kể hơn hết là Dinh Gia Long, được xây  năm 1886 dùng làm nơi cư ngụ của thống đốc Nam Kỳ. Hiện giờ nó là nơi đặt Viện Bảo Tàng Cách Mạng, một va chạm đáng ngạc nhiên nhưng điển hình giữa quá khứ thuộc địa của Việt Nam và hiện tại Cộng Sản của nó.

Và bây giờ là trường Chasseloup-Laubat, tức Lê Quý Đôn sau này. Một tàn tích gây xúc động khác của thời kỳ người Pháp đô hộ là trường trung học Chasseloup Laubat, trông đúng như nó xuất hiện trong phim L’amant (Người Tình), cuốn phim được dàn dựng theo tiểu thuyết của Marguerite Duras, với những mái ngói đỏ và trắng và những cánh cửa chớp màu xanh đón không khí nhiệt đới.

Vôi màu vàng và những cửa chớp màu xanh: màu của dải đất mang tên Đông Dương. Nhưng bây giờ màu đất vàng đã biến thành màu đất đen do bụi và ô nhiễm. Màu vàng sang trọng mơ ước bởi các kiến trúc sư người Pháp đã bị bao phủ và xói mòn và bị bóc đi bởi thời gian và độ ẩm.

Đó, Sài Gòn được nhìn qua đôi mắt của một nhà văn Pháp từng có kỷ niệm với nơi đây. Xin ghi lại để bạn bè cùng chia sẻ kẻo mai đây e không còn gì của Sài Gòn xưa khi nhà cầm quyền trong nước đang cho hạ hết cây xanh của thành phố.

TN – Tổng hợp