Đọc Tôi kéo xe, Tam Lang viết: “… Đối với cái nghề nó nhục quốc thể, chẳng nên cho nó sống dẳng dai… Bỏ xe kéo người lấy xe đạp thay vào ta vẫn để công việc cho anh em phu xe đâu có đấy”. Thế nhưng phải hơn mười năm sau thì xe kéo mới biến khỏi hệ thống giao thông công cộng ở Hà Nội.

Xe kéo ở Sài Gòn xuất hiện sau Hà Nội gần mười năm nhưng lại ngưng hoạt động sớm hơn ở Hà Nội cũng gần mười năm đồng thời xuất hiện những chiếc xích lô đạp vào giữa thập niên 30 đã nhanh chóng xóa đi hình ảnh của kiếp ngựa người. Thực ra “cái nghề nó nhục quốc thể” đâu chỉ dành riêng cho người phu xe kéo. Trước đó nữa, nghề khiêng cáng khiêng kiệu cũng chẳng nhục quốc thể hay sao. Chỉ có điều, thời buổi ngày ấy, không có phương tiện giao thông, việc đi cáng đi kiệu là cách thức phục vụ cho những người có quyền cao chức trọng hay của những người giàu có. Phương tiện thô sơ này đâu chỉ có riêng ở xứ ta mà nhiều nước trên thế giới nhất là ở châu Á vẫn sử dụng như một phương tiện đi lại của người quyền quý, cho dù cỡi ngựa hoặc xe ngựa đã xuất hiện cả mấy trăm năm trước.

Theo tài liệu The Jinrikisha Story của Nhật cho rằng xe kéo có nguồn gốc từ Nhật Bổn vào thời Minh Trị Thiên Hoàng khoảng năm 1868 với ý tưởng bắt nguồn từ những cỗ xe ngựa kéo. Nhưng cũng có những tài liệu ghi nhận là do một nhà truyền giáo người Mỹ đến Nhật Bổn và phát minh ra xe kéo vào năm 1869. Tuy nhiên, theo các tài liệu giao thông Tokyo, chính quyền sở tại cấp quyền phát minh và sản xuất cho 3 người Nhật là Izumi Yosuke, Suzuki Tokujiro và Tamayama Kosuke vào năm 1870. Ðến năm 1872, tại Tokyo đã có khoảng bốn chục ngàn xe kéo hoạt động như một loại phương tiện giao thông công cộng chính ở Nhật. Và sau đó, loại phương tiện này nhanh chóng xuất hiện tại Trung Hoa và các nước Ðông Nam Á, đến tận các nước vùng Ấn Ðộ Dương. Cho đến ngày nay Dhaka của Bangladesh vẫn còn được mệnh danh là thủ đô xe lôi của thế giới (một loại biến thể của xe kéo tay thành xe lôi giống như xe lôi đạp ở đồng bằng sông Cửu Long). Và người Nhật cho đến nay vẫn còn giữ hình ảnh xe kéo tay phục vụ cho khách du lịch tại nhiều thành phố.
Năm 1932. “Ở Hà Nội có tới ngàn rưỡi người chỉ vì bát gạo mà làm cái nghề kéo người. Bất cứ trời rét hay trời nóng, đang mưa như trút nước hay đang nắng như hun trời, đút đầu qua hai cái càng gỗ, anh em phu xe phải thúc tay co vó, chạy bở hơi tai, mình mẩy nhễ nhại mồ hôi, áo quần ướt như dúng nước. Họ khó nhọc như thế để kiếm cái gì! – Năm ba xu, một hào, một cuốc. Vừa đúng số tiền để mua ít cơm đút miệng, cái thứ cơm thổi bằng gạo hẩm trộn với ít nước hàng. Ăn để mà sống, ta không cần nói đến cái ăn! Nhưng sống nào đã được yên?” (Tôi kéo xe – Tam Lang).
Theo Hồ sơ SL. 1832, Văn thư lưu trữ Sài Gòn, vào thời gian 1879, người Pháp nghiên cứu thành lập đường xe điện Sài Gòn – Chợ Lớn, nhân viên Công chánh khảo sát các lượng xe qua lại trong một ngày xem mức độ khai thác tuyến xe điện có khả thi thì chỉ thấy ghi nhận số lượng xe kiếng (xe ngựa kéo), xe song mã, xe bò và người cỡi ngựa. Vào thời gian này, xe đạp chưa du nhập vào các nước Ðông Dương. Mãi đến năm 1888 mới xuất hiện một vài xe kéo (từ Bắc mang vào) và bốn năm sau đó, một người Nhật tên Tokamath xin khai thác độc quyền xe kéo cho “culi” mướn nhưng không được chính quyền Pháp chấp thuận. Chỉ có người Pháp hoặc người Việt quốc tịch Pháp mới được quyền khai thác.

Một số tài liệu khác nghiên cứu giao thông đường bộ Ðông Dương cho thấy năm 1920, Sài Gòn có chừng 1000 chiếc xe kéo, là phương tiện di chuyển công cộng phổ biến nhất thời bấy giờ vì xe thổ mộ đến năm 1929 mới xuất hiện. Xe kéo giá rẻ nhưng hầu như không phải phục vụ giới lao động bình dân, dân đen vẫn dùng đôi chân đi bộ, chỉ có những người giàu có, quyền thế sử dụng để đi bát phố, nhìn ngắm thiên hạ. Những câu chuyện về Bạch công tử và Hắc công tử ở Bạc Liêu và Mỹ Tho ghi rằng tuy có xe hơi (năm 1914 xe hơi bắt đầu xuất hiện ở miền Nam), nhưng hai công tử đi đâu trong thành phố vẫn thích dùng xe kéo riêng, ngồi trên ghế nệm xe tay cầm ba toong, mắt đeo kính đen, miệng phì phèo điếu thuốc lá cho dân đinh chiêm ngưỡng vẻ phú quý hào hoa.
Như trên đã nói, xe kéo ban đầu dành phục vụ người giàu có quyền thế nhưng khi những phương tiện giao thông khác như xe đạp, xe hơi được du nhập vào Ðông Dương dần dà xe kéo trở thành phương tiện giao thông cho mọi giới và nó không còn phù hợp với quy mô thành phố được mở rộng. Những năm cuối thập niên 30, xích lô đã xuất hiện tại Sài Gòn. Ðầu thập niên 40 các hãng cho thuê xích lô bắt đầu xoá sổ các nhà cho thuê xe kéo. Giá cuốc xe xích lô rẻ và xe chạy nhanh hơn xe kéo. Ðến cuối thập niên 40, đô thành Sài Gòn-Chợ Lớn có chừng 6,500 chiếc xích lô. Xe kéo không còn khả năng cạnh tranh nên tàn lụi theo quy luật thương trường. Hình ảnh người phu xích lô hoàn toàn thay thế hình ảnh “ngựa người” kéo dài hơn nửa thế kỷ tại Sài Gòn và các tỉnh Nam bộ.

Trong khi đó ở Hà Nội không có loại xe thổ mộ chỉ có xe trâu, xe bò làm phương tiện đi lại ở nông thôn nên bối cảnh giao thông thời đó không năng động bằng ở Sài Gòn, sức cạnh tranh phương tiện vận chuyển hầu như không có. Xe kéo và xe điện là hai hình thức vận chuyển công cộng trong thành phố.
Ở lứa tuổi tôi may mắn là hình ảnh chiếc xe “người ngựa” đã biến mất nhưng tôi đã đi xe lôi đạp ở Trà Vinh hồi năm 1969 khi theo ông anh bà con về thăm quê ngoại. Nghe người lớn nói xe lôi đạp xuất hiện tại các tỉnh miền Nam từ những năm cuối thập niên 30. Tôi cho rằng, sáng kiến chế biến xe kéo thành xe lôi gắn vào xe đạp đáng được cấp bằng phát minh sáng tạo. Xe đạp kéo theo thùng xe đạp nhẹ hơn là đạp xích lô đẩy hành khách về phía trước. Tôi có cảm giác như vậy bởi xe lôi đạp có thể chở bốn người ngồi sau chạy bon bon trên đường, trong khi người phu xe xích lô phải ì ạch ẹo lưng gồng căng cơ chân chở hai người ngồi trước. Nhất là khi lên dốc, hành khách đành phải xuống xe đi bộ qua cầu. Xe kéo thì vất vả hơn nhiều, người phu xe chạy bộ, muốn dừng phải chạy chậm dần rồi đi bộ. Ðể dừng hẳn phải dùng sức đôi chân bám xuống mặt đường và đôi tay gồng giữ chiếc xe. Ðó là chưa nói chuyện kéo chiếc xe lên dốc hoặc xuống dốc phải dùng sức toàn thân, cả đôi tay và đôi chân. Nói chung là hao hơi tổn sức không khác gì con vật tự xoay sở mà không có cái thắng xe như của xe lôi xe xích lô đạp hỗ trợ. Nguyễn Công Hoan viết phóng sự đặt tựa thật chí lý “Người ngựa, ngựa người” cho hai nhân vật, người phu kéo xe và cô gái điếm đi xe không có tiền trả vào ngày cuối năm.
Trong lời mở đầu cho thiên phóng sự “Tôi kéo xe” tái bản năm 1969, Tam Lang viết: “Năm 1932, viết thiên phóng sự Tôi kéo xe cho đăng trên Hà Thành Ngọ Báo và năm 1935 tự bỏ tiền ra in thành sách thiên phóng sự đó, tôi chân thành có hai ước vọng: chế độ “cai xe” sẽ không còn nữa; chiếc xe hai bánh “người kéo người” sẽ được chiếc xe 3 bánh “người đạp người” thay thế, để người phu xe không còn bị “cai xe” bóc lột, đồng thời lấy lại được phẩm cách con người khi họ không còn tự ti mặc cảm thấy xã hội coi khinh coi rẻ họ như thân trâu ngựa”.

Tôi có mấy người bạn lớn tuổi đi du lịch ở Nhật về kể chuyện ở Kyoto có xe kéo tay giống như vài thành phố ở Việt Nam người ta dùng xe xích lô chở khách du lịch đi bát phố. Cứ cho rằng, xe kéo xuất xứ từ Nhật và trở thành loại xe vận chuyển công cộng hồi xưa nhưng ở một đất nước hiện đại sản xuất ra biết bao nhiêu loại xe hơi tốt nổi tiếng thế giới lại quay về sử dụng hình ảnh xe “người ngựa” thì thấy làm thân phận con người không ra làm sao, không chấp nhận được. Nhưng khi tôi hỏi mấy ông có bỏ tiền đi xe kéo chơi cho biết không thì có người bảo có. Một cuốc xe kéo còn mắc tiền hơn cuốc taxi.
Người Nhật vốn giữ tính truyền thống, việc dùng xe kéo phục vụ cho khách du lịch cũng là chuyện bình thường cũng như ngay tại New York hay San Francisco, du khách muốn đi xe lôi đạp thì xin mời. Người Mỹ đâu có truyền thống xe lôi nhưng vẫn dùng xe lôi của nước khác tạo nhu cầu đa dạng cho du khách thích đi ngắm cảnh phố phường không muốn dùng xe buýt.
TN