Nhân ngày giỗ Anh Bằng tôi xin thắp nén hương lòng tưởng niệm ông, người nhạc sĩ tôi quý mến như cha.
Tôi được biết nhạc sĩ Anh Bằng từ ngày Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ ở hải ngoại mới thành lập, mà ông là một trong các vị nhạc sĩ cố vấn lão thành. Tôi thường gọi ông bằng chú với tất cả tấm lòng quý mến như người cha. Tôi chia sẻ vui buồn đời thường và những bài viết của tôi với ông. Ông hay gởi các CD hay DVD của ông cho tôi và những dòng thư an ủi, khích lệ, góp ý về lãnh vực âm nhạc.
Một lần gặp ông, tôi hỏi ông về cảm nghĩ phút ông rời xa Hà Nội, về khắc chia tay vật vờ ánh mắt người yêu đầu đời ấy, tâm trạng ông ra sao? Ông chỉ vào tai mình nói “Chú điếc đặc rồi, chẳng nghe được gì” Tôi lại hỏi “Chú còn nhớ bài “Nỗi lòng người đi”, còn nghe được tiếng đàn không?” Ông mỉm cười khi nghe tôi hét to. “Chú chỉ nghe được tiếng rè rè thôi”. Tôi không hỏi nữa, vì biết có hỏi cũng không nhận được câu trả lời. Nhìn nụ cười hiền lành của ông, lòng tôi dâng lên chút bùi ngùi. Nụ cười của người đã mút xa Hà Nội hàng mấy mươi năm ấy, vẫn không xóa mờ được tiếng “khóc tơ duyên lìa tan” trong lòng người con trai mười tám Anh Bằng thuở xưa. Ngày người giã từ đêm Hà Nội, ngày gió mùa đông bắc thổi buốt má, khô môi, thông thốc rải lá khô đầy những gờ mái cong hàng phố cổ. Hai mươi mấy năm sau, người thanh niên đó đã ngũ tuần, phủ thêm một nỗi lòng mới, dứt áo ra đi xa lìa đất tổ. Hà Nội giờ là bên này của ký ức, Sài Gòn chỉ còn bên kia của hồi tưởng, tiếng đàn xưa giờ có trổi, người nhạc sĩ cũng không còn nhận được điệu tình tang thấm thía mịt mù.
Hơn sáu mươi năm âm nhạc, nhạc sĩ Anh Bằng đã để lại cho chúng ta rất nhiều tác phẩm nổi tiếng trong kho tàng âm nhạc. Tuy nhiên “Nỗi lòng người đi” đã khắc một dấu ấn sâu đậm và làm nên tên tuổi một Anh Bằng ở mãi trong lòng người yêu nhạc. Ðối với những người Bắc di cư hầu như không ai không biết bài hát này, vì nó không chỉ là nỗi lòng riêng ông, mà còn là nỗi lòng thắm thiết bao người, đối với mảnh đất thân yêu đã sinh ra và nuôi họ lớn lên. Hà Nội không chỉ là một địa danh mà là một biểu tượng cho cái nôi văn hóa của cả một miền Bắc Việt Nam. Xa Hà Nội là xa trời, xa đất, xa người, xa tất cả, là để lại phân nửa hình hài thân thể của chính mình.
Có nhiều nhạc sĩ đeo đuổi nghiệp sáng tác như một nghiệp dư, Anh Bằng ngược lại. Từ khi vào Nam phục vụ trong ngành chiến tranh tâm lý, ông hoạt động như một nghệ sĩ trong Ðại Ðội 2 văn nghệ, sáng tác nhạc, kịch. Ông đoạt “Giải văn học nghệ thuật toàn quốc” thời Ðệ Nhất Cộng Hòa với vở kịch “Ðứa con nuôi” . Sau khi giải ngũ năm 1962, ông hoạt động trong đài truyền thanh VTVN và phụ trách ban Sóng Mới. Ông thường ký nhiều tên khác nhau như Lê Minh Bằng do sự hợp tác với Lê Dinh và Minh Kỳ hay nhiều tên khác như Vũ Chương, Mạc Phong Linh, Mai Thiết Lĩnh, Mai Bích Dung, Dạ Ly Vũ, Dạ Cầm, Giang Minh Sơn, Hoàng Minh, Trần An Thanh, Tây Phố, Trúc Ly, Tôn Nữ Thụy Khương, Phương Trà, Huy Cường,Vương Ðức Long v.v…Có lẽ ông thích khoác cho mình bộ áo muôn màu, đủ sắc như sự đa dạng trong tác phẩm của ông.
Ký ức Sài Gòn ngày còn bé của tôi, rất bình dị với cuộc sống trong một xóm nhỏ bình dân bùn lầy nước đọng. Ngày ấy tôi rất thích ca khúc “Nó” của Lê Minh Bằng, vì khi nghe “Nó” tôi có thể mường tượng ra thằng bé đánh giày hay ngủ trước hiên nhà tôi. “Nó” thường đánh thức tôi bằng những tràng chửi thề liên tục cùng bè bạn hằng đêm. “Nó”, của các em bé tay gầy quắt queo, xòe rộng bàn tay xin tiền ở chợ, đình, chùa, quán ăn, lề đường, góc phố. “Nó” đói lạnh, bị hắt hủi, xua đuổi, bị bọn bất lương đánh đập gây thương tật để gợi lòng thương của khách cho tiền. Ở một tia nhìn mẫn cảm của người nghệ sĩ, “Nó” đã chạm tới một góc khuyết của tâm hồn, một phía khuất của bóng tối xã hội.
Hôm nay tôi bất chợt gặp được ca khúc này trên youtube, qua giọng hát trong vắt của Hương Lan, trên nền nhạc đệm với hai nghệ sĩ kèn điệu nghệ, theo tôi, thật là tuyệt tác.
Hình ảnh “chuỗi ngày tăm tối vô bờ” qua tiếng trumpet vang lên thật thê thiết, còn giọng kèn saxo xoáy thẳng vào tận cùng đau đớn bằng những nốt treo day dứt. Ca từ bài hát giản dị, chuyên chở vừa đủ nội dung cần diễn đạt đời sống một đứa bé nghèo, thiếu thốn cơ cực. Ngày còn trong nước, tuổi thơ của tôi lớn lên bằng tiếng ru vọng cổ của cô người làm, tiếng ư ử xuyên vách “Hai mùa mưa” của chị bán chè đậu kế bên nhà, mỗi lúc chị đi tắm. Chị tâm sự với tôi, chị ghiền nghe Trang Mỹ Dung nức nở bài này lắm. Sau này lớn lên, tôi cũng đồng ý với chị không ai ăn đứt được tiếng hát TMD khi trình bày bài này. Giọng hát trầm trầm ấy, nhỏ từng hạt tinh thể nước mắt vào lòng người, tưới tẩm cho những cuộc tình tan vỡ, trổ đầy trái đắng nhân sinh. Sáng tác “Hai mùa mưa” của Lê Minh Bằng đến với tôi từ đó.
Nhạc trữ tình của Anh Bằng đi sâu vào lòng người qua những ca khúc có nội dung thương thân trách phận, thất tình, cô đơn, buồn khổ hay xa cách. Sống trong thời ly loạn hầu hết những ca khúc của ông thấp thoáng màu áo trận của người lính chiến, của những biệt ly và lên đường như “Căn nhà ngoại ô”, Lẻ Bóng”, “Sầu lẻ bóng”, Ðường khuya” hay “Nếu hai đứa mình”, “Giấc ngủ cô đơn”… Ông còn đề cao tình chiến hữu trong “Huynh đệ chi binh” hoặc vui buồn đời quân ngũ “Binh méo, cai tròn” hay hóm hỉnh như “Ðánh cờ người”, tếu táo trong “Tập lái vespa” mà ban AVT thường trình diễn.
Nhạc của ông không dừng lại ở tầng lớp những người bình dân mà còn ngưng đọng ở một tầng lớp chọn lọc khác, nhất là ở lãnh vực thơ phổ nhạc. Có lẽ ông rất thích thú trong dạng này. Có những bài thơ của các thi sĩ nổi tiếng đã được ông phổ nhạc khiến nhiều người mê đảo một thời như các bài “Khúc thuỵ du” của Du tử lê, “Trúc đào” của Nguyễn Tất Nhiên, “Ai bảo em là giai nhân” của Lưu Trọng Lư, “Anh biết em đi chẳng trở về” của Thái Can, “Hoa học trò” của Nhất Tuấn. Khi phổ nhạc các bài thơ, hầu hết, ông thường lấy ý, mượn ý, nhiều lắm là một hai câu và sau đó dùng ca từ riêng của mình. Khi dịch lời nhạc ngoại quốc qua Việt cũng vậy, ông tạo một ngôn ngữ riêng mà vẫn giữ ý chính, như trong bài “Tình nồng cháy”, nguyên tác “Over and over”, do Cornell Haynes Jr, Jayson “KoKo” Bridges & James D. Hargrove sáng tác.
Khi di cư qua Hoa Kỳ, ông tiếp tục hoạt động âm nhạc với Trung tâm sản xuất và phát hành băng nhạc cassette Dạ Lan (1981-1990). ông còn cộng tác với Trung tâm Asia. Những nhạc phẩm ông viết sau này nói lên tâm sự, nỗi lòng hoài hương và những hình ảnh sinh hoạt hàng ngày của người con Việt sống lưu vong như “Căn gác lưu đày” , “Nước mắt quê hương”. Xúc động và phẫn khích trước thảm họa xâm lăng của Trung quốc, ông hăng say sáng tác những ca khúc tích cực, rực lửa, khơi dậy lòng ái quốc, đấu tranh cho quê hương, dân tộc như “Phải lên tiếng”, “Cả nước đấu tranh”, “Hãy đứng lên”, “Tuổi trẻ Việt Nam” v.v…
Hôm nay tôi ngồi đây viết lại những dòng tưởng niệm nhạc sĩ Anh Bằng như một nỗi nhớ, niềm thương kính với người cha, người chú hiền từ, đầy lòng nhân ái. Qua ánh nến lung linh tưởng niệm, hình ảnh người thanh niên xa Hà Nội năm nào, bỗng trở lại chấp chới đầy trời trên những khung nhạc chép giấy hoa tiên lượn bay. Bao nhiêu năm trải lòng, bấy nhiêu năm cảm xúc xôn xao góp phần xây dựng cho âm nhạc Việt Nam có tên Anh Bằng góp phần. Suốt một đời nghệ sĩ phục vụ và quay cuồng trong vòng xoáy quỹ đạo âm nhạc, có nhiều người đã phải quăng bút, gác đàn vào một góc tối nào đó vì nhiều lý do. Anh Bằng thì không, sức sáng tạo vẫn còn lấp lánh đâu đó thúc đẩy người nghệ sĩ, dù thính giác khiếm khuyết, vẫn ngồi xuống đẩy cung đưa bậc, thơ dân gian, vần lục bát, điệu quan họ, vào làn hơi tân nhạc. Sáng tác mới “Mình ơi, em chẳng cho về” của Anh Bằng như một minh chứng. Tôi thấy được trong nhạc, ánh mắt dịu dàng nàng thiếu nữ Bắc Ninh, nụ tình lúng liếng níu kéo người đi, động lòng kẻ ở. Tôi trộm nghĩ tôi mà có phép màu quay ngược được thời gian, về lại xóm cổ Ba Mươi Sáu Phố Phường xưa, thấy cô gái Hà Nội của Anh Bằng, bằng mắt tình lúng liếng người con gái Bắc Ninh, ắt hẳn chàng thanh niên mười tám của “Nỗi lòng người đi” chẳng thể nào dứt áo vì câu “Mình ơi, em chẳng cho về” . Và chúng ta hẳn không có cơ hội trong đời được hát đi hát lại những lời tha thiết cho tình yêu, cho đất cũ “Hà Nội ơi, nào biết ra sao bây giờ. Ai đứng trông ai ven bờ, khua nước trong như ngày xưa” .
Trong một câu viết tình cờ tôi đọc được trên một ngôi mộ trong nghĩa trang Mạc Ðĩnh Chi ngày còn bé, có viết “Chỉ sự quên lãng của người ở lại, mới làm mờ hình bóng kẻ ra đi”. Có lẽ sự ra đi của ông khó mờ phai trong tâm tưởng những người từng quen biết ông, nhất là những người từng hát, từng mến mộ những ca khúc của ông.
TTT